Vụ kiện giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ V với các bị đơn Bùi Văn T, Lê Thị H là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tiền. Ngày 31/5/2016, ông T ký hợp đồng tại phòng công chứng vay của bà V 819 triệu đồng, thời hạn trả là 18/6/2016. Ngày 20/6/2016, bà V khởi kiện đòi ông T và bà H (vợ ông T) liên đới trả nợ tiền vay. Bà H khai rằng không biết về khoản vay này và không đồng ý liên đới cùng ông T trả nợ.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều buộc bà H cùng liên đới trả nợ. Viện trưởng VKSND cấp cao có kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng bà H không có trách nhiệm liên đới trả nợ. TAND cấp cao tại TP. Hồ chí Minh (Quyết định giám đốc thẩm số 118/2018/DS-GĐT ngày 7/2/2018) đã không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm. Ông T và bà H có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị giám đốc thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 118/2018 nêu trên.
Tại phiên họp ngày 5/4/2019, HĐTP TANDTC đã hủy Quyết định giám đốc thẩm số 118/2018, hủy Bản án phúc thẩm, giao cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm lại theo hướng xác định bà H không có trách nhiệm liên đới trả khoản tiền 819 triệu đồng nêu trên nếu không có căn cứ gì mới.
Từ nhận định của Kháng nghị và nhận định của Hội đồng Thẩm phán, có một số sai sót cần rút kinh nghiệm như sau:
Bản án sơ thẩm, Bản án phúc thẩm, Quyết định giám đốc thẩm số 118/2018 của Tòa án cấp cao đều xác định bà H có trách nhiệm liên đới trả nợ vì vay trong thời kỳ hôn nhân. Đây là nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật. Tài sản do một bên tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung (quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Nhưng không có quy định nào là cứ vay trong thời kỳ hôn nhân là nợ chung.
Các đương sự đều thừa nhận bà H không tham gia ký kết hợp đồng vay tiền. Nguyên đơn cho rằng bà H biết việc vay tiền nên yêu cầu bà H liên đới trả nợ thì nguyên đơn có trách nhiệm chứng minh bà H biết và đồng tình để ông T vay tiền. Tòa án cấp sơ thẩm lại đòi hỏi bà H phải chứng minh việc mình không tham gia, không biết là không đúng với quy định về nghĩa vụ chứng minh và những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh quy định tại các Điều 91, 92 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).
Một bên vợ hoặc chồng không tham gia giao dịch mà vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới chỉ trong trường hợp quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 27 dẫn chiếu đến các Điều 24, 25, 26 và 37, đó là:
-Điều 24: Đây là trường hợp bên giao dịch đã là đại diện hợp pháp của bên kia (theo ủy quyền hoặc theo pháp luật);
-Điều 25: Đây là trường hợp kinh doanh chung;
-Điều 26: Là trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ;
-Điều 37: Là trường hợp “nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”.
Hợp đồng vay tiền trong vụ án này không thuộc một trong các trường hợp nêu trên.
Trong Kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao đối với bản án phúc thẩm đã nêu đây không thuộc trường hợp “nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Quyết định giám đốc thẩm số 118/2018 không nhận xét về nội dung này nhưng giải trình của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có nêu khái niệm “đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình” chưa được giải thích rõ. Tuy nhiên, khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”. Rõ ràng là cứ theo lời văn của khoản 20 này thôi thì việc vay 819 triệu đồng trong vụ án này không thể được coi là vì “nhu cầu thiết yếu của gia đình”.
Nghĩa vụ chứng minh là của ai?
Vụ kiện giữa nguyên đơn Lê Thị Nha T với bị đơn Lê Khánh H là vụ án tranh chấp về nghĩa vụ trả tiền. Trước đây, các đương sự đã có tranh chấp về việc chia thừa kế nhà 20 Võ Trứ. Tại Bản án sơ thẩm số 35/2007/DS-ST ngày 19/9/2007 (đã có hiệu lực pháp luật) đã quyết định giao cho ông H sở hữu nhà 20 Võ Trứ và ông H phải trả cho bà T 462 triệu đồng (bà T đang cư trú tại Mỹ). Ngày 15/5/2008, bà T và ông H ký Bản cam kết với nội dung ông H không phải trả bà T khoản 462 triệu đồng và 10.000 USD tiền vay nhưng chỉ được sử dụng nhà 20 Võ Trứ vào mục đích thờ cúng.
Ngày 11/3/2015, bà T khởi kiện yêu cầu hủy cam kết ngày 15/5/2008 vì cho rằng ông H đã vi phạm cam kết này; đòi ông H trả cho bà khoản tiền 462 triệu đồng, khoản tiền vay 10.000 USD và khoản tiền vay 20.000 USD mà ông H đã xác nhận nợ tại Thư ngày 7/11/2007. Ông H chỉ đồng ý trả khoản tiền 462 triệu và 10.000 USD, không đồng ý trả khoản tiền 20.000 USD vì ông cho rằng khoản tiền này chính là khoản tiền 462 triệu.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm (Bản án phúc thẩm số 02/2015/DS-PT ngày 10/11/2015 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng) đều buộc ông H phải trả cả 3 khoản tiền cho bà T. Ông H có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm.
Tại phiên họp ngày 5/4/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy bản án phúc thẩm, giao xét xử phúc thẩm lại theo hướng không chấp nhận yêu cầu của bà T về khoản tiền 20.000 USD nếu không có chứng cứ gì mới. Nhận định của Hội đồng Thẩm phán có vấn đề về trách nhiệm chứng minh cần lưu ý là:
Bà T xuất trình Thư ngày 7/11/2007 của ông H gửi bà T để chứng minh ông H có nợ khoản vay 20.000 USD. Nhưng trong thư này có nội dung cụ thể là “Còn về chuyện nhà cửa, em còn nợ chị 20.000 USD”. Trong thư này cũng không nhắc đến khoản tiền 462 triệu. Do đó, nội dung thư này thể hiện đúng như ông H khai rằng nói về khoản tiền 20.000 USD là nói về khoản tiền 462 triệu chia thừa kế nhà 20 Võ Trứ mà ông H phải thanh toán cho bà T. Bà T nêu rằng 20.000 USD là vay về việc khác thì lời khai này không phù hợp với nội dung thư, bà T phải có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ để chứng minh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại đòi hỏi ông H phải xuất trình chứng cứ chứng minh 20.000 USD không phải là khoản vay khác là đánh giá chứng cứ không đúng thực tế chứng cứ hiện có, không đúng theo quy định của Điều 91, Điều 92 BLTTDS.
Tự ý đi qua đất người khác, bị buộc trả lại lối đi thì Tòa án có phải giải quyết lối đi khác cho họ không?
Nguyên đơn Nguyễn Văn C kiện đòi các bị đơn Phan Văn H, Phan Văn M, Phan Ngọc L, Phan Thị D trả lại thửa đất số 66 ở TP. Bà Rịa mà gia đình nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ 16/3/1998. Các bị đơn cho rằng đây là đất trống, họ đã sử dụng từ lâu nên không đồng ý trả.
Trên thửa đất số 66 có lối đi (diện tích 12,4m2) mà 3 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là ông Phan Văn N, bà Nguyễn Minh Ch, bà Phan Thị B đang sử dụng. Những người này thừa nhận trước năm 2009 thì đi nhờ qua đất ông H nhưng do ông H làm nhà mới lên lối đi nên phải đi nhờ như hiện nay. Ông N, bà Ch, bà B yêu cầu được tiếp tục sử dụng lối đi vì không có lối đi nào khác.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã buộc các bị đơn trả lại đất đang sử dụng tại thửa 66 cho nguyên đơn, buộc những người đang sử dụng lối đi 12,4m2 trả lại đất lối đi cho nguyên đơn với nhận định: Lối đi cũ sau khi ông H làm nhà thì vẫn còn với chiều rộng 80cm trong khi lối đi hiện tại không phải là lối đi công cộng.
Những người phải trả lại lối đi có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm (Bản án số 110/2016/DS-PT ngày 6/6/2016 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh).
Tại phiên họp ngày 5/4/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy phần giải quyết về lối đi của Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại với một số nhận định đáng lưu ý sau:
Những người đang sử dụng lối đi là những chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra nên có quyền yêu cầu giải quyết một lối đi qua bất động sản liền kề theo quy định tại Điều 275 BLDS năm 2005 (nay quy định tại Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015). Giải quyết việc đòi lại đất mà đất đó chính là lối đi đang sử dụng phải đồng thời xem xét đến lối đi mới của người phải trả lại đất.
Quy định về quyền lối đi qua bất động sản liền kề cũng quy định “được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất”. Lối đi cũ cũng là đi nhờ và đã không sử dụng từ lâu do xây dựng công trình nên đất còn lại chỉ rộng 80cm. Việc coi như các đương sự vẫn có lối đi, buộc trả lại lối đi đang sử dụng mà không giải quyết lối đi mới là không bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các đương sự.