So với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung mới, tiến bộ hơn, đã thể chế hóa được cơ bản các chủ trương về cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng về bảo vệ quyền con người và hướng tới mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bài viết dưới đây sẽ phân tích những nội dung được sửa đổi, bổ sung, quy định mới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
1. Căn cứ yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, trong đó, có lĩnh vực thi hành án dân sự. Khoản 5 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2007 quy định văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là văn bản đã có hiệu lực pháp luật do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó, xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ hoặc là bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường.
Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại, qua đó làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên tắc bồi thường của Nhà nước được quy định mới trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Theo đó, khoản 4 Điều 4 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định Nhà nước giải quyết yêu cầu bồi thường sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự theo quy định.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường được quy định tại Điều 21 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, bao gồm: (i) Bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ; (ii) Quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự chấp nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung khiếu nại của người khiếu nại; (iii) Quyết định hủy, thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định về thi hành án vì quyết định đó được ban hành trái pháp luật; (iv) Quyết định xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ bị tố cáo trên cơ sở kết luận nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo; (v) Văn bản của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trả lời chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; (vi) Quyết định xử lý kỷ luật người thi hành công vụ do có hành vi trái pháp luật; (vii) Văn bản khác theo quy định của pháp luật đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định có 08 nhóm quyết định mà cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên ra hoặc không ra, tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành có thể sẽ thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong đó, bao gồm cả quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án. Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số câu từ, đã không quy định nhóm quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo đó, trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 chỉ quy định có 07 nhóm quyết định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể, Điều 21 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự như sau: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: 1. Ra hoặc không ra một trong các quyết định sau đây trái pháp luật: a) Thi hành án; b) Hủy, thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án; c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; d) Cưỡng chế thi hành án; đ) Hoãn thi hành án; e) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; g) Tiếp tục thi hành án; 2. Tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này trái pháp luật”.
3. Thiệt hại được bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự được thực hiện theo những quy định chung tại Chương 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, tuy nhiên cần lưu ý một số nội dung sau đây:
Một là, đối với việc trả lại tài sản, Điều 50 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định chung chung, chưa phân biệt rõ nhóm hành vi nào thuộc trách nhiệm của cơ quan nào trong việc trả lại tài sản trong trường hợp bị thu giữ, tạm giữ, kê biên và tịch thu. Khắc phục hạn chế đó, Điều 30 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định, tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu trái pháp luật phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy bỏ (khoản 1) và việc trả lại tài sản bị kê biên trái pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (khoản 3).
Hai là, các thiệt hại Nhà nước không bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung, và quy định rõ ràng hơn tại khoản 1 Điều 32 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, bao gồm: Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người thi hành công vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép; thiệt hại xảy ra trong hoàn cảnh người thi hành công vụ muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 23 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
Ngoài các thiệt hại không được bồi thường nêu trên, khoản 4 Điều 32 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 cũng bổ sung mới quy định, trong hoạt động thi hành án dân sự, Nhà nước không bồi thường thiệt hại xảy ra khi người thi hành công vụ áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo đúng yêu cầu của đương sự mà gây thiệt hại. Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
4. Cơ quan giải quyết bồi thường
Khoản 2 Điều 40 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định chung chung cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Để xác định rõ cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự ngay trong Luật, Điều 39 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã quy định cụ thể cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự là Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự.
5. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường
Một trong những quan điểm chỉ đạo khi xây dựng dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đó là sửa đổi quy định về quy trình, thủ tục giải quyết bồi thường theo hướng rút ngắn các bước và thời gian giải quyết yêu cầu bồi thường (giảm từ 125 ngày xuống còn trên 50 ngày)[1]. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu công phu kinh nghiệm quốc tế, tổng kết thực tiễn giải quyết bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, lấy ý kiến các cơ quan trực tiếp giải quyết bồi thường để xây dựng các quy định về thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường bảo đảm tính khả thi. So với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có cách tiếp cận khác khi quy định về thủ tục giải quyết bồi thường. Cụ thể, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên từng lĩnh vực, bao gồm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án, trong mỗi lĩnh vực này đều có mục riêng quy định về thủ tục giải quyết bồi thường, ví dụ, trong lĩnh vực thi hành án dân sự được quy định tại Mục 2 Chương IV, từ Điều 41 đến Điều 44. Việc quy định như vậy vừa có thể gây trùng lặp hoặc phải dẫn chiếu nhiều lần đến các điều quy định về thủ tục giải quyết bồi thường đã được quy định trước đó vừa gây khó hiểu và khó vận dụng trong thực tiễn. Do vậy, để khắc phục những hạn chế đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã tách ra và quy định thành một chương riêng về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường cơ bản sẽ được áp dụng chung cho các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Chương V). Một số điểm được sửa đổi, bổ sung mới về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Chương V, bao gồm:
Một là, thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung và quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại (Mục 1 Chương V). Đồng thời, bổ sung quy định mới về việc hoãn giải quyết yêu cầu bồi thường (Điều 49), tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường (Điều 50) và đình chỉ giải quyết bồi thường (Điều 51) để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan nhà nước. Để giảm bớt các thủ tục hành chính giấy tờ và giảm thời gian trong việc giải quyết bồi thường, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã bỏ quy định yêu cầu về kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường của cơ quan tài chính có thẩm quyền, thay vào đó, Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện và quy định rõ ràng về thành phần tham gia thương lượng bồi thường (đại diện lãnh đạo cơ quan giải quyết bồi thường chủ trì; người giải quyết bồi thường; người yêu cầu bồi thường, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (nếu có) của họ theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; đại diện cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước; đại diện Viện kiểm sát có thẩm quyền; trường hợp cần thiết, cơ quan giải quyết bồi thường có thể mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp, cá nhân, tổ chức khác, yêu cầu người thi hành công vụ gây thiệt hại tham gia thương lượng); địa điểm, nội dung, các bước, biên bản thương lượng và nếu việc thương lượng thành thì thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường ra quyết định giải quyết bồi thường hoặc trong trường hợp thương lượng không thành thì người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật.
Hai là, thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản các quy định về khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án. Đáng chú ý, tại khoản 1 Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 bổ sung mới 02 trường hợp người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu bồi thường, cụ thể, trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường nếu họ chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường (điểm a khoản 1 Điều 52); hoặc nếu người yêu cầu bồi thường rút yêu cầu bồi thường trước khi cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành xác minh thiệt hại (điểm b khoản 1 Điều 52 và điểm a khoản 1 Điều 51).
Ngoài ra, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 giữ nguyên một trường hợp khởi kiện tại Tòa án yêu cầu bồi thường, đó là trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường mà người yêu cầu bồi thường không không đồng ý với quyết định đó thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền (khoản 1 Điều 22 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và khoản 2 Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017). Đồng thời, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 sửa đổi, bổ sung rõ và quy định linh hoạt thêm hai trường hợp người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện tại Tòa án, đó là:
(i) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng thành mà cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không ra quyết định giải quyết bồi thường thì người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường (khoản 2 Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017). Quy định mới này bảo đảm sự linh hoạt trong quá trình giải quyết bồi thường và theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, vì tính chất phức tạp, khó khăn của quá trình thương lượng. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã tạo nhiều có hội nhất có thể để các bên thương lượng, ví dụ, thông thường, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tiến hành thương lượng, việc thương lượng phải được hoàn thành. Trường hợp vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn thương lượng tối đa là 15 ngày. Thời hạn thương lượng có thể được kéo dài theo thỏa thuận giữa người yêu cầu bồi thường và người giải quyết bồi thường nhưng tối đa là 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thương lượng theo quy định (khoản 1 Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017);
(ii) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành thì người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường (khoản 2 Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).
Như vậy, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã liệt kê 05 trường hợp người yêu cầu bồi thường có quyền quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường, so với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã quy định cụ thể, rõ ràng về lý do, thời hạn, yêu cầu hồ sơ khởi kiện... nhằm tạo thuận lợi nhất có thể để người yêu cầu bồi thường khởi kiện tại Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.
Ngoài ra, để việc giải quyết yêu cầu bồi thường được nhanh chóng, thuận lợi cho người dân, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã bổ sung mới về thủ tục rút gọn, theo đó, nếu vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án được thực hiện theo thủ tục rút gọn (khoản 6 Điều 52). Cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại đại diện Nhà nước tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn (khoản 7 Điều 52). Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết yêu cầu bồi thường, Điều 54 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 cũng bổ sung mới quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường, cụ thể: Cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho người yêu cầu bồi thường theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường. Cơ quan, tổ chức, người có liên quan phải thực hiện việc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp khác cho người bị thiệt hại theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường.
Ba là, thủ tục giải quyết bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính tại Tòa án
Lần đầu tiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã bổ sung 01 điều mới (Điều 55) quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính tại Tòa án được quy định tại mục 2 Chương V, đây vừa là thủ tục, vừa là một trong những nguyên tắc mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (khoản 4 Điều 4) và đồng thời là một trong những căn cứ để xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong một số trường hợp cụ thể (khoản 2 Điều 40), đó là trường hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án thì Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án là cơ quan giải quyết bồi thường.
Tuy nhiên, việc giải quyết bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính tại Tòa án là vấn đề mới cần phải có hướng dẫn cụ thể và phải qua thực tiễn kiểm nghiệm mới có đủ cơ sở để quy định cụ thể vào Luật nên khoản 5 Điều 55 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã giao Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành nội dung này.
6. Về kinh phí bồi thường và thủ tục hoàn trả
Trên nguyên tắc việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; việc cấp phát kinh phí bồi thường, chi trả tiền bồi thường theo hướng đơn giản, nhanh gọn nhằm khắc phục tình trạng quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan giải quyết bồi thường, bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị thiệt hại phải đợi lâu mới nhận được tiền bồi thường, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã quy định Bộ Tài chính, Sở Tài chính có trách nhiệm lập dự toán, quyết toán kinh phí bồi thường. Việc cấp phát kinh phí và chi trả tiền bồi thường chỉ căn cứ vào quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật[2]. Đây là một trong những quy định mới quan trọng và có ý nghĩa của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người bị thiệt hại.
7. Trách nhiệm hoàn trả
Trách nhiệm hoàn trả đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định cụ thể tại Chương VII Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, sau đây là một số nội dung được sửa đổi, bổ sung mới cần lưu ý:
Một là, nghĩa vụ hoàn trả của người thi hành công vụ được quy định tại Điều 64 Luật Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 như sau: Người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại; trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ hoàn trả tương ứng với mức độ lỗi của mình và thiệt hại mà Nhà nước phải bồi thường.
Hai là, xác định mức hoàn trả, giảm mức hoàn trả. Sau 06 năm triển khai thực hiện cho thấy, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 chưa quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm hoàn trả và mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại, trách nhiệm của người ra quyết định hoàn trả dẫn đến việc hoàn trả của người thi hành công vụ còn bị xem nhẹ và chưa được thực hiện thống nhất. Bên cạnh đó, quy định mức hoàn trả chưa đủ tính răn đe, chưa nâng cao trách nhiệm thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những quy định có tính nguyên tắc trước đây, từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 65 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung mới và quy định cụ thể, rõ ràng hơn về mức hoàn trả và giảm mức hoàn trả. Ngoài ra, để phù hợp với tính nhân đạo của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, khoản 3 Điều 68 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã bổ sung một quy định mới liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả, đó là, trường hợp người thi hành công vụ phải hoàn trả là người đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi hoặc phụ nữ đang mang thai thì được hoãn việc hoàn trả theo quyết định của thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại.
Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự góp phần thực hiện thành công chiến lược cải cách tư pháp, đồng thời, hạn chế tới mức tối đa những vi phạm thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực này, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu để thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 ngay sau khi có hiệu lực pháp luật. Đây không chỉ là nhiệm vụ riêng của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự mà còn là yêu cầu, đòi hỏi chung đối với các nhà nghiên cứu, các cấp và các ngành trước yêu cầu hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo Tạp chí Dân chủ và Pháp luật