Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề pháp chế. Nhà nước pháp quyền khẳng định tính tối cao của pháp luật, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, pháp luật chi phối và điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng, mục đích của nhà nước. Nhà nước định ra pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, bởi vì, pháp luật được coi là giá trị chung, là đại lượng mang tính phổ biến, bảo đảm mọi người được bình đẳng và công bằng xã hội. Nhà nước muốn trở thành Nhà nước pháp quyền phải được tổ chức trên cơ sở pháp luật. Mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước được pháp luật quy định và bảo đảm cho các quy định đó có hiệu lực pháp lý. Nhà nước pháp quyền đối lập với những tư tưởng coi thường pháp luật. Hiện tượng coi thường pháp luật của một số cán bộ, nhân dân, cơ quan nhà nước thực chất là đối lập pháp quyền. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người được mở rộng theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, cán bộ, nhân viên, cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Nguyên tắc này thể hiện sự ràng buộc của pháp luật đối với tất cả mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, chức vụ, chống lại sự tự tiện, chuyên quyền, độc đoán của cán bộ, nhân viên, cơ quan nhà nước...
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hay cá nhân đều phải tôn trọng pháp luật, tuân theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật - thước đo đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Và khi nói đến tuân theo pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến pháp chế, vì pháp chế là một chế độ tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác, không có ngoại lệ. Nên trong nhà nước pháp quyền nhất thiết phải tăng cường pháp chế nhằm tạo ra những văn bản pháp luật có chất lượng để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, phòng tránh sự tự tiện, lạm quyền hay tha hóa quyền lực của cán bộ, nhân viên, cơ quan nhà nước...
Có thể thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ cần có đủ luật, mà còn yêu cầu cao về chất lượng các đạo luật, phải có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, ổn định, lâu dài.... Vì vậy, phải tăng cường pháp chế trong tất cả các lĩnh vực như: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, tổ chức bộ máy, phát huy dân chủ... Như vậy, pháp chế là công cụ cơ bản, chủ yếu để đưa pháp luật vào cuộc sống nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay và lâu dài.
Trong Hiến pháp năm 2013 không đề cập đến thuật ngữ pháp chế mà chỉ đề cập đến thuật ngữ pháp quyền, nên đã có quan điểm cho rằng, trong nhà nước pháp quyền không có pháp chế; pháp quyền, pháp chế là như nhau hoặc trong nhà nước pháp quyền pháp chế sẽ dần lạc hậu, mất đi. Thực chất vấn đề này như thế nào, chúng ta cùng nhìn về lịch sử lập hiến Việt Nam để khẳng định rằng pháp chế được đặt ra trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam, tuy nhiên, có thể có bản Hiến pháp không đặt ra khái niệm pháp chế rõ ràng, chi tiết, cụ thể mà chỉ là tinh thần pháp chế được thể hiện trong các quy định của Hiến pháp.
Hiến pháp năm 1946, nền tảng của nhà nước pháp quyền và tinh thần pháp chế ở Việt Nam được thể hiện trong đó, pháp quyền được hiểu là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ; pháp chế là sự tuân thủ pháp luật, không có ngoại lệ. Từ cách hiểu này có thể thấy, Hiến pháp 1946 là văn kiện mang tính nền tảng cho việc phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế ở Việt Nam. Hiến pháp thể hiện tư tưởng pháp quyền, pháp chế một cách sâu sắc khi quy định về Quốc hội lập hiến và quyền phúc quyết của người dân; quy định và bảo đảm các quyền của công dân; thiết kế bộ máy nhà nước thành các nhánh quyền lực và kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau trong đó nhấn mạnh đến tính độc lập của hệ thống tòa án; quy định mỗi công dân phải tuân theo pháp luật (Điều 4)...
Hiến pháp năm 1959, thuật ngữ pháp chế chưa sử dụng, nhưng có quy định thể hiện tinh thần pháp chế: “Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” (Điều 6). Hiến pháp năm 1980 đã quy định và sử dụng thuật ngữ này: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Hiến pháp năm 1992 tiếp tục sử dụng và bổ sung, làm rõ hơn nội hàm thuật ngữ “pháp chế” trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 12).
Đến Hiến pháp năm 2013, “pháp chế” không còn được quy định cụ thể, chi tiết mà chỉ có thể thấy được tinh thần pháp chế qua các quy định như: Khoản 3 Điều 4 quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”; Khoản 1 Điều 8 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”; Khoản 3 Điều 9 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận và các Tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật”; Điều 46 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Sự thay đổi này đã làm cho không ít người cho rằng khái niệm, quan niệm về “pháp chế” đã lỗi thời, đã được thay thế bởi khái niệm, quan niệm về pháp quyền cũng như nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh đó, kế thừa các bản Hiến pháp trước đấy, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Với quy định này, xét trong mối tương quan với quy định về pháp chế có thể thấy: nếu trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) cả nhà nước pháp quyền và pháp chế cùng được ghi nhận thì đến Hiến pháp năm 2013, chỉ còn ghi nhận về nhà nước pháp quyền, không còn quy định trực tiếp về pháp chế. Điều này là cơ sở cho nhận thức về sự mất đi khái niệm, quan niệm về pháp chế như đã nói ở trên. Nhưng, sự mất đi hai chữ “pháp chế” và sự ghi nhận chính thức khái niệm, quan niệm về nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp chưa thể xem là cơ sở để khẳng định không có pháp chế.
Cho đến nay, không có dấu hiệu chính thức, chính thống nào về sự xóa bỏ hay “tự tiêu vong”, “mất đi” khái niệm, quan niệm về “pháp chế” và cũng không có sự đánh đồng giữa “pháp quyền”, “pháp chế”. Pháp chế tồn tại hay không là do nội hàm của nó quyết định, chứ không phụ thuộc vào suy diễn chủ quan. Vì vậy, dù không còn hai chữ “pháp chế”, song tinh thần của “pháp chế” vẫn được thể hiện nguyên vẹn trong Hiến pháp năm 2013.
Hiện nay, pháp chế vẫn là nội dung quan trọng được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thể hiện ở một trong những định hướng lớn để phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2045 được xác định là “tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn”, trong đó nêu rõ mối quan hệ: “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới một lần nữa được nhấn mạnh về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phần quan điểm đó là “nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”. Như vậy có thể khẳng định rằng: pháp chế không chỉ được thể hiện trong các văn bản của Đảng mà còn được nhà nước thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó cao nhất là Hiến pháp, tạo cơ sở, hành lang chính trị, pháp lý để tiếp tục phát huy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.
Linh Phúc
Theo thinhvuongvietnam.com