Công tác thi hành án dân sự, hành chính trước yêu cầu cải cách tư pháp từ năm 2006 đến nay

25/10/2017
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, các lĩnh vực của công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, công tác tư pháp nói chung, hoạt động thi hành án dân sự, hành chính nói riêng cần phải tiếp tục nỗ lực, cố gắng, đề ra nhiều giải pháp thiết thực, cụ thể bảo đảm thực hiện các mục tiêu mà Chiến lược đề ra.


1.  Định hướng, chủ trương cải cách tư pháp về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định THADS, THAHC là một trong những nội dung trọng tâm cần được cải cách với các định hướng cụ thể:
Về hoàn thiện chính sách pháp luật, thể chế: Tập trung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về chức năng, nhiệm vụ: Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân địa phương trong công tác thi hành án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án. Nghiên cứu chế định thừa phát lại, tổ chức thí điểm tại một số địa phương, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn có bước đi tiếp theo.
Về xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh: Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc. Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp.
Về hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp của cơ quan dân cử. Cơ quan dân cử nên có nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn. Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Về công tác phổ biến, tuyên truyền: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp.
Bảo đảm cơ sở vật chất: Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương. Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đang buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp; Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức đảng với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp.
2. Công tác thi hành án dân sự, hành chính từ năm 2006 đến nay
2.1. Kết quả hoàn thiện thế chế
Triển khai các định hướng cải cách tư pháp lớn trong hoàn thiện thể chế, pháp luật để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự. Chính phủ, Bộ Tư pháp và các bộ ngành đã ban hành 50 văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này, bao gồm: 03 Nghị định của Chính phủ, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 18 Thông tư, 17 Thông tư liên tịch, 01 Quy chế phối hợp liên ngành, 03 Quyết định và 01 Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và 04 Quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.
Ngày 25/11/2014, kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, trong đó sửa đổi, bổ sung 55/183 điều của Luật 2008. Công tác hoàn thiện thể chế hướng dẫn thi hành Luật được tập trung đẩy mạnh với việc ban hành 01 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và 05 Thông tư. Đến nay hệ thống văn bản pháp luật về THADS đã được hoàn thiện với 02 Nghị định, 01 Chỉ thị, 08 Thông tư liên tịch và 13 Thông tư.
Các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động thi hành án dân sự cũng tiếp tục được hoàn thiện với sự ban hành Luật Phá sản năm 2014, Luật Giá năm 2012, Luật Đấu giá tài sản năm 2016, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 và năm 2017. Đặc biệt, để đẩy nhanh tiến độ thu hồi các khoản nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Thực hiện nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng như bảo vệ các cơ quan, tổ chức, cá nhân trước nguy cơ từ những vi phạm, sai sót của cơ quan công quyền, Quốc hội đã thông qua Luật tố tụng hành chính năm 2010 và năm 2015 cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền nếu có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật, ngày 25/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành án hành chính và ngày 01/7/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định trình tự, thời hạn, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Thực hiện xã hội hóa một số khâu, lĩnh vực trong hoạt động thi hành án dân sự, cũng tại Nghị quyết số24/2008/QH12 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, Quốc hội đã cho phép triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự và giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Ngày 19/02/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/02/2009 phê duyệt Đề án ”Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh”. Đồng thời, ngày 24/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kết quả thí điểm, ngày 23/11/2012, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP để tiếp tục triển khai thực hiện.
Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 107/2005/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại trong đó quyết định chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi toàn quốc kể từ ngày 01/01/2016. Nghị quyết cũng giao Chính phủ căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, tổ chức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi hành nghề theo quy định hiện hành, có sự sửa đổi, bổ sung cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Thừa phát lại. Hiện tại, Chính phủ đang dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009. Ngoài ra, để kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm trong hoạt động Thừa phát lại, Chính phủ đang dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013, Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo hướng bổ sung các hành vi vi phạm trong hoạt động của Thừa phát lại và hình thức xử phạt vào dự thảo Nghị định.
2.2. Kết quả thi hành án dân sự, hành chính
2.2.1. Kết quả thi hành án dân sự về việc, về tiền
Triển khai Chiến lược cải cách tư pháp, kết quả thi hành án của các cơ quan thi hành án dân sự về việc, tiền thi hành xong có xu hướng ngày càng cao và năm sau cao hơn năm trước, qua đó đóng góp tích cực cho việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cụ thể:
Năm Thi hành xong
Về việc Về tiền (đồng)
2006 Không có số liệu 3.430 tỉ 555 triệu
2007 Không có số liệu 4.221 tỉ 288 triệu
2008 355.757 5.116 tỉ 257 triệu
2009 351.143 6.844 tỉ 215 triệu
2010 Không có số liệu Không có số liệu
2011 Không có số liệu Không có số liệu
2012 390.725 10.349 tỉ 723 triệu
2013 492.975 28.965 tỉ
2014 531.095 38.981 tỉ
2015 533.985 42.819 tỉ
2016 530.428 29.097 tỷ
2017 549.415 35.242 tỷ 612 triệu
2.2.2. Kết quả xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự trong giai đoạn này đã có thay đổi căn bản về tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp được nâng lên Cục loại I. Cơ quan thi hành án dân sự từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập với tên gọi Thi hành hành dân sự cấp tỉnh, Thi hành án dân sự cấp huyện.Theo đó, Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Thi hành án dân sự cấp huyện là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Thi hành án dân sự cấp tỉnh về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Theo thống kê năm 2008, cả nước có 8.308 biên chế, gồm 2.801 Chấp hành viên , gồm 387 Chấp hành viên cấp tỉnh và 2.414 Chấp hành viên cấp huyện, 64 cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và 676 cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
Ngày 30/10/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, theo đó, Hệ thống Thi hành án dân sự được quản lý theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Tại Tổng cục có 08 cơ quan tham mưu, gồm: (1) Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, trọng tài thương mại; (2) Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định phá sản; phần dân sự, tiền, tài sản, vật chứng trong bản án, quyết định hình sự và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản; (3) Vụ Quản lý Thi hành án hành chính; (4) Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo; (5) Vụ Tổ chức cán bộ; (6) Vụ Kế hoạch - Tài chính; (7) Văn phòng; (8) Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin. Tại địa phương có 63 Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và 710 Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Về đội ngũ công chức, năm 2017, về biên chế, đã thực hiện 9.347/9.657 biên chế. Hiện toàn quốc có 3.867 Chấp hành viên (gồm 19 Chấp hành viên cao cấp, 833 Chấp hành viên trung cấp và 3.015 Chấp hành viên sơ cấp); 736 Thẩm tra viên (04 Thẩm tra viên cao cấp (ngoài ra còn 01 trường hợp đang chờ Bộ Nội vụ bổ nhiệm), 63 Thẩm tra viên chính, 669 Thẩm tra viên)  và 1.929 Thư ký thi hành án (Trong đó có 1.619 Thư ký thi hành án, 310 Thư ký trung cấp thi hành án). Đã kiện toàn, bổ nhiệm 62/63 Cục trưởng, 01 Quyền Cục trưởng và 136 Phó Cục trưởng. Tại cấp huyện có 641/710 Chi cục trưởng, 25 Quyền Chi cục trưởng, 44 Phó Chi cục trưởng phụ trách và 1.021 Phó Chi cục trưởng.
2.2.3. Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc
Trong giai đoạn đầu cải cách tư pháp, việc đầu tư trang thiết bị và phương tiện làm việc cho các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương được thực hiện theo Đề án “Đầu tư trang bị phương tiện làm việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tư pháp giai đoạn 2006 - 2010”. Đến năm 2008, đã đầu tư xây dựng mới 22 trụ sở làm việc của cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, 354 trụ sở cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện. Hệ thống đã triển khai đầu tư xây dựng 58 kho vật chứng, trong đó 13 kho vật chứng cấp tỉnh và 45 kho vật chứng cấp huyện.
Ngày 29/10/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1984/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đầu tư trang thiết bị phương tiện làm việc cho các cơ quan Thi hành án dân sự giai đoạn 2011 - 2015” với tổng kinh phí được duyệt là 376 tỉ 355 triệu đồng. Trên cơ sở đó, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã được trang bị các trang thiết bị, phương tiện làm việc thiết yếu để phục vụ công tác như: các phương tiện đi lại (xe ô tô, xe ô tô chuyên dùng, xe máy...); các trang thiết bị, phương tiện làm việc (máy vi tính, máy in, máy photocoppy, máy fax,…); các công cụ, phương tiện hỗ trợ công tác thi hành án (loa pin cầm tay, máy ảnh, máy ghi âm, gậy điện...).
Ngày 24/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 440/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng trụ sở, kho vật chứng cho các cơ quan Thi hành án dân sự và xây dựng và các cơ sở đào tạo thuộc Bộ Tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, giai đoạn 2011 - 2015” với tổng kinh phí được duyệt là 2.103 tỉ 697 triệu. Trên cơ sở đó, công tác đầu tư xây dựng trụ sở kho vật chứng giai đoạn này được quan tâm và có nhiều đột phá: quy mô, tổng mức đầu tư tăng do được tính đầy đủ diện tích đặc thù và theo biên chế định biên đến năm 2015.
Năm 2017, tổng số vốn đầu tư xây dựng cấp cho khối các cơ quan THADS địa phương là 102 tỷ 781 triệu đồng, giảm 233 tỷ 219 triệu đồng so với năm 2016. Trong đó, 92 tỷ 826 triệu đồng cấp cho 44 dự án xây dựng trụ sở làm việc và 9 tỷ 955 triệu đồng cấp cho 11 dự án xây dựng kho vật chứng. Dự kiến 15 dự án sẽ hoàn thành, bàn giao và đưa vào sử dụng trong năm 2017. Như vậy, đến nay, có 63 Cục và 675 Chi cục được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc; 60 Cục và 201 Chi cục được đầu tư xây dựng kho vật chứng. Trên cơ sở Kế hoạch đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan THADS giai đoạn 2016 - 2020, năm 2017 Bộ Tư pháp đã cấp 120 tỷ để tiến hành triển khai mua sắm theo kế hoạch đối với các trang thiết bị, phương tiện làm việc như xe ô tô, máy tính, máy in, máy photocoppy.
Từ năm 2015, các cơ quan THADS trên toàn quốc đã vận hành Cổng, Trang thông tin điện tử THADS, công bố các thủ tục hành chính, thống nhất thực hiện cơ chế một cửa, hỗ trợ trực tuyến và tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích, qua đó góp phần rút ngắn thời gian thi hành án, nêu cao tinh thần phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Tiếp tục phát triển hệ thống truyền hình trực tuyến đa phương tiện nhằm nâng cao hiệu quả và tính kịp thời của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành từ Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS đến 63 Cục THADS địa phương, năm 2017, Bộ Tư pháp tiếp tục ưu tiên đầu tư mua sắm trang thiết bị trực tuyến đa phương tiện, phấn đấu đến năm 2018 có thể tổ chức giao ban, hội nghị trực tuyến đến cấp Chi cục trên toàn quốc. Bên cạnh đó, để hiện đại hóa hoạt động quản lý công tác THADS, Bộ Tư pháp đang tích cực xây dựng để triển khai trong toàn quốc phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS.
2.2.4. Một số kết quả nổi bật khác
- Về kết quả theo dõi thi hành án hành chính, Tòa án nhân dân đã chuyển giao cho cơ quan THADS 1.974 bản án, quyết định, trong đó có 1.614 bản án, quyết định không có nội dung phải theo dõi và 361 bản án, quyết định có nội dung theo dõi. Đã thi hành xong 276 việc, còn 85 việc chưa thi hành xong. Các cơ quan THADS đã ban hành văn bản thông báo về trách nhiệm tự nguyện thi hành án đối với 297 việc, 64 vụ việc còn lại không thuộc diện phải ra văn bản thông báo do Tòa án đã có Quyết định buộc thi hành án; đăng tải quyết định buộc thi hành án hành chính trên Cổng, Trang thông tin điện tử THADS đối với 40 trường hợp; có văn bản kiến nghị xem xét đối với 14 trường hợp có nghĩa vụ chấp hành án.
- Về kết quả phối hợp với Thừa phát lại trong việc tống đạt văn bản về THADS và tổ chức THADS, các cơ quan THADS đã phối hợp với Thừa phát lại thực hiện tống đạt 82.933 văn bản và tổ chức thi hành án đối với 88 việc. Nhìn chung, công tác phối hợp giữa cơ quan THADS và Thừa phát lại tương đối chặt chẽ, hiệu quả, việc tống đạt được thực hiện kịp thời, qua đó, bước đầu góp phần giảm tải khối lượng công việc cho các cơ quan THADS.
- Hoạt động giám sát, kiểm sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân các cấp tiếp tục được tăng cường. Các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện 248 cuộc giám sát đối với công tác THADS, tăng 96 cuộc so với năm 2016. Hàng năm, theo yêu cầu của HĐND và UBND cùng cấp, các cơ quan THADS báo cáo công tác THADS trước HĐND và UBND theo quy định. Qua giám sát, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành 199 kết luận giám sát (trong đó có 163 kết luận đúng và đã thực hiện; 25 kết luận đúng một phần, đã thực hiện và giải trình; 11 kết luận cơ quan THADS phải giải trình toàn bộ), còn 49 cuộc chưa có kết luận giám sát. Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thực hiện 1.127 cuộc kiểm sát đối với công tác THADS, tăng 168 cuộc so với năm 2016. Kết quả, đã ban hành 188 kháng nghị (trong đó, số kháng nghị đúng là 179, số kháng nghị đúng một phần là 03, số kháng nghị không đúng là 06) và 1.321 kiến nghị.
- Toàn quốc có 32 vụ việc bồi thường đang được xem xét giải quyết (năm trước chuyển sang là 19 vụ việc, thụ lý mới 13 vụ việc). Kết quả: 06 vụ việc đã được cấp kinh phí bồi thường với tổng số tiền là 1 tỷ 283 triệu 980 nghìn 296 đồng.
- Công tác phối hợp liên ngành tiếp tục được đặc biệt quan tâm chú trọng ở cả trung ương cũng như địa phương. Các Quy chế phối hợp liên ngành với các bộ, ngành liên quan như Tòa án, Kiểm sát, Nội chính, Công an, Ngân hàng, Bảo hiểm xã hội tiếp tục được triển khai hiệu quả, giúp các cơ quan THADS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
3. Tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
3.1. Tồn tại, hạn chế
- Án liên quan đến các khoản nợ của tổ chức tín dụng có số tiền phải thi hành rất lớn, như năm 2017 còn trên 99.000 tỷ đồng, chiếm 60,74% tổng số tiền phải thi hành của toàn Hệ thống nhưng kết quả thi hành chỉ đạt 27,89% nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thi hành án xong về giá trị trên toàn quốc.
- Một số vụ án lớn thi hành chưa được hiệu quả, một số vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài và vụ việc dư luận xã hội quan tâm chưa được xử lý dứt điểm.
- Nhiều vụ việc công tác xác minh điều kiện thi hành án theo định kỳ đối với hồ sơ án chưa có điều kiện còn chậm; một số trường hợp kê biên, xử lý tài sản chưa kịp thời.
- Số công chức bị xử lý kỷ luật do vi phạm về chuyên môn nghiệp vụ thi hành án tuy đã giảm so nhưng vẫn còn nhiều (năm 2017 là 29 trường hợp).
3.2. Khó khăn, vướng mắc
- Một số vụ việc trọng điểm, phức tạp đã kéo dài nhiều năm trong khi điều kiện kinh tế, xã hội và các quy định của pháp luật liên quan có nhiều thay đổi so với thời điểm giải quyết vụ việc, cần phải có sự phối hợp, chỉ đạo thống nhất của nhiều cấp, nhiều ngành.
- Thị trường bất động sản tuy có khởi sắc nhưng chưa rõ rệt, nhiều tài sản kê biên, bán đấu giá nhiều lần vẫn không bán được, như năm 2017, toàn quốc có 7.535 việc đã kê biên, định giá lại, bán đấu giá nhưng chưa xử lý được với số tiền trên 10.898 tỷ đồng, chiếm 11,8% số tiền có điều kiện đang thi hành của toàn quốc.
- Việc xác minh, kê biên, định giá, đấu giá tài sản thế chấp trong các vụ việc liên quan đến các khoản nợ của tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn như xác định ranh giới đất, định giá chênh lệch nhiều so với giá thẩm định lúc cho vay, đấu giá không có người mua, bên được thi hành án không nhận tài sản.
- Điều kiện thi hành án trong những vụ án lớn còn gặp nhiều khó khăn do giá trị phải thi hành án lớn nhưng đa phần tài sản đã bị che giấu, hợp lý hóa hoặc cố tình tẩu tán nên giá trị tài sản bảo đảm rất nhỏ hoặc thậm chí không có tài sản để thi hành án; đương sự đang phải chấp hành án phạt tù không có tài sản để thi hành án. Cơ chế quản lý, sử dụng tiền mặt, quản lý, kiểm soát tài sản, thu nhập của cá nhân, đăng ký tài sản còn đang trong quá trình hoàn thiện.
- Mặc dù đã giảm nhiều so với năm trước song vẫn còn tình trạng án tuyên không rõ, có sai sót; Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền chậm giải thích bản án, trả lời kiến nghị, kháng nghị của cơ quan THADS và cơ quan có thẩm quyền.
- Qua công tác theo dõi cho thấy kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành bản án, quyết định hành chính của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật của một số cơ quan nhà nước còn chưa nghiêm, còn 70 trường hợp Tòa án phải ra Quyết định buộc thi hành án.
- Một số trường hợp sự phối hợp của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với những vụ việc phải huy động lực lượng vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật THADS còn chưa được các cấp, các ngành chú trọng quan tâm đúng mức. Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án còn chưa cao, nhiều vụ việc, người phải thi hành án trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án nhưng dư luận xã hội còn chưa lên án mạnh mẽ.
- Một số trường hợp chống đối quyết liệt, đặc biệt là trong quá trình cưỡng chế giao tài sản trúng đấu giá hoặc cố tình khiếu nại vượt cấp, khởi kiện tại Tòa án gây khó khăn, kéo dài, trì hoãn việc thi hành án nhưng chưa có các biện pháp đủ mạnh để buộc thực hiện hoặc răn đe người phải thi hành án.
 - Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ công chức. Nhiều trường hợp còn để xảy ra vi phạm, sai sót do kỹ năng, trình độ chuyên môn của công chức còn hạn chế.
- Cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, nhất là tình trạng thiếu kho vật chứng, trụ sở làm việc. Còn 35 Chi cục chưa được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc; 03 Cục và 509 Chi cục chưa được đầu tư xây dựng kho vật chứng.
3.3. Nguyên nhân
Những hạn chế và yếu kém nêu trên có nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt là do: Tư duy, nhận thức về hoạt động THADS còn bị hành chính hóa; thể chế một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến THADS như: đăng ký tài sản, xử lý tài sản bảo đảm đang trong quá trình hoàn thiện; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu một số cơ quan THADS chưa thực sự quyết liệt, hiệu quả; cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin còn chậm và chưa tạo chuyển biến rõ rệt; một bộ phận công chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; công tác phối hợp với một số cơ quan hữu quan còn chưa chặt chẽ; chế độ, chính sách đối với công chức THADS chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhiều cơ quan thi hành án chưa được đầu tư xây dựng, nâng cấp trụ sở và kho vật chứng. Cụ thể:
Về chủ quan
- Năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận công chức, Chấp hành viên, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ; việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong toàn Hệ thống đã có nhiều tiến bộ nhưng một số nơi còn chưa nghiêm.
- Tại một số cơ quan THADS, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu chưa thực sự quyết liệt, thiếu sâu sát; công tác kiểm tra, tự kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng, hiệu quả còn hạn chế.
- Cơ quan THADS có nơi chưa chủ động, tích cực đề xuất tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương và Ban Chỉ đạo THADS trong chỉ đạo, lãnh đạo công tác THADS, nhất là trong chỉ đạo giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, kéo dài.
- Công tác cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong công tác chuyên môn nghiệp vụ còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động THADS.
Về khách quan
- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều và tiếp tục tăng cao so với năm trước (năm 2017 tăng 46.576 việc (5,57%) tương ứng với 28.434 tỷ 887 triệu 444 nghìn đồng (19,67%) so với năm 2016. Bên cạnh đó, còn hơn 176 nghìn việc với hơn 71 nghìn tỷ đồng chưa có điều kiện thi hành chuyển kỳ sau nhưng phải đôn đốc, xác minh theo định kỳ.
 - Các vụ án liên quan đến các khoản nợ của tổ chức tín dụng tiếp tục tăng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tiền phải thi hành của toàn Hệ thống, chiếm tới 60,74%, trong khi đó, việc xử lý tài sản bảo đảm mà chủ yếu là bất động sản gặp rất nhiều khó khăn do thị trường bất động sản chưa có chuyển biến rõ rệt, người dân có tâm lý “e ngại” khi mua tài sản liên quan đến thi hành án.
- Nhiều trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù không có tài sản hoặc thu nhập để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Quy trình, thủ tục thi hành án còn chưa thực sự được tinh gọn, một số trường hợp đương sự lợi dụng để khiếu nại, tố cáo hoặc yêu cầu Tòa án xem xét thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, kéo dài thời gian thi hành án.
- Biên chế của cơ quan THADS còn chưa tương xứng với khối lượng công việc, nhất là trong bối cảnh khối lượng việc và tiền phải thi hành án ngày càng tăng như năm 2016 tăng 5,64% về việc và 14,74% về tiền; năm 2017 tăng 5,57% về việc và 19,67% về tiền, gây áp lực không nhỏ cho hoạt động THADS. Năm 2017, trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh bình quân mỗi Chấp hành viên giải quyết 325 việc tương ứng với trên 245 tỷ đồng; TP. Hà Nội mỗi Chấp hành viên giải quyết 188 việc tương ứng với trên 97 tỷ đồng; tỉnh Bình Dương mỗi Chấp hành viên giải quyết 454 việc tương ứng với 85 tỷ đồng; tỉnh Long An mỗi Chấp hành viên giải quyết 336 việc tương ứng với trên 60 tỷ đồng.
- Chưa có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với công chức luân chuyển, biệt phái về những địa bàn trọng điểm, cấp bách. Cơ chế bảo vệ đối với Chấp hành viên còn chưa được quy định, tính rủi ro nghề nghiệp ngày càng cao, một số trường hợp đương sự chống đối quyết liệt, lợi dụng khiếu nại, tố cáo để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của Chấp hành viên.
- Cơ chế kiểm sát đối với bên phải thi hành án chưa được quan tâm đúng mức.
4. Bối cảnh tình hình, nhu cầu, mục tiêu và những yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, hành chính trong thời gian tới;
Trong thời gian tới, các cơ quan THADS cần tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ công chức THADS trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động THADS, hành chính, hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, hành chính được Quốc hội, Chính phủ giao. Trong tinh thần đó, các cơ quan THADS cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc trách nhiệm của mình đối với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, cụ thể:
- Tạo nền tảng xã hội ổn định
Để phát triển sản xuất kinh doanh, mỗi nền kinh tế phải tạo lập một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định và có tính tin cậy cao. Trong môi trường đó, ổn định xã hội là điều kiện tiên quyết, có tính chất quyết định để có thể triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp phát triển kinh tế khác. Nhà nước phải bảo đảm thượng tôn pháp luật, các nguyên tắc pháp quyền, thúc đẩy đồng thuận xã hội, phòng chống tội phạm hiệu quả, xét xử công bằng các tranh chấp và thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, Nhà nước phải bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng ổn định vững chắc để phát triển các quan hệ kinh tế.
- Trực tiếp giải phóng nguồn lực kinh tế
Để kiến tạo môi trường cho kinh tế phát triển, Nhà nước cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, phải tập trung giải phóng những nguồn lực kinh tế “mất giá trị tạm thời” do bị kê biên, phong tỏa, “đóng băng” trong các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại mà hàng năm trị giá lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Đồng thời, phải chú trọng đẩy mạnh xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay, khơi thông dòng chảy tài chính phục vụ phát triển kinh tế.
- Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Trước yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, Nghị quyết Trung ương Năm khóa XII vừa qua đã ghi nhận và khẳng định THADS là một trong những hoạt động quan trọng, góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút các nhà đầu tư và khuyến khích phong trào khởi nghiệp.
Phát triển kinh tế tư nhân yêu cầu Nhà nước khẩn trương hoàn thiện thể chế bảo vệ các nhà đầu tư, trong đó, trọng tâm là hoàn thiện thể chế về sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Các quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư phải được tôn trọng và bảo đảm hiệu lực thực thi. Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế và dân sự. Các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản, nhất là bất động sản, phải tiếp tục được phát triển theo hướng minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận, bảo đảm cho các quyền tài sản được giao dịch thông suốt, không rơi vào trạng thái ách tắc, trì trệ. Các dịch vụ hành chính công phải được hiện đại hóa để tiết kiệm thời gian, chi phí, không tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp.
Trong đời sống kinh doanh, công cụ quan trọng để các nhà đầu tư tiến hành các giao dịch phục vụ hoạt động sản xuất là hợp đồng. Cùng với đó là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu như cầm cố, thế chấp... Hoàn thiện và bảo đảm cơ chế thực thi nghiêm minh, có hiệu quả pháp luật về hợp đồng cùng với việc nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp là yếu tố quan trọng tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh. Vấn đề các nhà đầu tư quan tâm khi đến làm ăn tại mỗi quốc gia là hiệu lực, hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong trường hợp xảy ra tranh chấp, họ sẽ phải mất bao nhiêu thời gian và chi phí để có thể thu hồi thành công tài sản, đồng vốn của họ.
Theo Ngân hàng thế giới, cùng với các yếu tố khác như khởi sự kinh doanh, tín dụng, xây dựng, đăng ký sở hữu, thuế, bảo hiểm, điện năng, cấp thoát nước, thông quan hàng hóa thì hiệu lực thi hành bản án là một tiêu chí hết sức quan trọng cho sự tín nhiệm của mỗi nền kinh tế. “Công lý chậm trễ là công lý bất công”. Một nền kinh tế có hệ thống tư pháp hiệu lực với các thiết chế đủ năng lực bảo đảm việc thực thi các nghĩa vụ hợp đồng sẽ bảo vệ các quyền tài sản, thúc đẩy mạnh mẽ các thị trường tín dụng và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tương tự, một cơ chế phá sản hiệu quả, nhanh và tiết kiệm sẽ giúp tái phân phối các nguồn lực, rút ngắn thời gian thu hồi tài sản, tiền vốn và sớm đưa các nhà đầu tư trở lại sản xuất, kinh doanh bình thường.
5. Kiến nghị giải pháp nâng chất lượng, hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Trong giai đoạn 2018 - 2020, đất nước ta sẽ tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, an toàn, thuận lợi. Công tác THADS tiếp tục gắn liền với yêu cầu xây dựng nền tư pháp nhân dân và quan điểm của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 về xây dựng Chính phủ “kiến tạo, phát triển, liêm chính và phục vụ”. Để lãnh đạo Ngành Tư pháp, Hệ thống THADS hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao, công tác THADS cần tập trung một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Lãnh đạo triển khai đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong hoạt động THADS, hành chính
- Quán triệt và có biện pháp cụ thể tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc trong toàn Hệ thống Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường, xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Chỉ thị 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/9/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua đó, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ công chức THADS có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu.
- Quán triệt và có biện pháp cụ thể tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc trong toàn Hệ thống Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII và Kế hoạch hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII, Nghị quyết 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Qua đó, làm rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của THADS trước yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của kinh tế thị trường định hướng XHCN; từng bước thay đổi tư duy, nhận thức và hành động nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, hành chính.
- Quán triệt, lãnh đạo các cơ quan THADS hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ về THADS, quản lý nhà nước về thi hành án hành chính theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo và Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân sự.
Lãnh đạo công tác hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành hiệu quả các văn bản pháp luật về THADS, hành chính
- Tập trung hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS, hành chính, tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả hoạt động THADS, hành chính. Tổng kết những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hoàn thiện thể chế về nâng cao hiệu lực, hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong THADS. Tập trung nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS phù hợp với yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trưởng định hướng XHCN, trong đó đặc biệt chú trọng tinh gọn các thủ tục THADS. Nghiên cứu, đề xuất đưa Luật Thi hành án hành chính vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2019.
- Tổ chức thi hành hiệu quả Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tiếp tục quán triệt và chỉ đạo triển khai có hiệu quả Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành các bản án, quyết định hành chính của Tòa án.
- Tổ chức thi hành hiệu quả các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến quá trình thi hành án. Phối hợp thực hiện nghiêm túc Luật Giá năm 2012, Luật Đấu giá tài sản năm 2016, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Quán triệt các cơ quan THADS thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Lãnh đạo công tác kiện toàn, phát triển Hệ thống
- Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Tổng cục THADS theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan THADS sau khi Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt được ban hành.
- Tập trung lãnh đạo xây dựng các đơn vị cấp Chi cục vững mạnh toàn diện, xử lý dứt điểm những đơn vị, địa bàn yếu kém, hạn chế. Bố trí công chức Hệ thống cơ quan THADS phù hợp với Danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính của Bộ Tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 1685/QĐ-BTP ngày 28/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Thực hiện công tác tuyển dụng công chức cho Hệ thống THADS, bảo đảm đủ biên chế. Cân đối, bố trí hợp lý biên chế cho các cơ quan THADS trên cơ sở biên chế được giao hàng năm.
- Tiếp tục tăng cường hiệu quả thực thi các quy định hiện hành về chế độ, chính sách áp dụng đối với công chức, người lao động THADS và nghiên cứu, hoàn thiện các chế độ, chính sách dành cho công chức THADS để phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Phối hợp với Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương quan tâm cử công chức thuộc Hệ thống Thi hành án dân sự tham gia các lớp đào tạo trình độ cao cấp lý luận chính trị và Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính.
- Phối hợp trong công tác xây dựng quy hoạch, bổ nhiệm công chức lãnh đạo các cơ quan THADS, đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn lãnh đạo ổn định, lâu dài, có sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ. Phối hợp nghiên cứu xây dựng văn bản quy định chế độ hỗ trợ đối với công chức Hệ thống THADS được điều động, luân chuyển, biệt phái theo hướng quy định chi tiết các chế độ hỗ trợ, mức hỗ trợ phù hợp với các đối tượng thụ hưởng, như hỗ trợ về phụ cấp chức vụ, mức lương, ngạch công chức, nhà công vụ, hỗ trợ ban đầu.
- Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý, quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của Hệ thống THADS, trên cơ sở Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Tư pháp giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 358/QĐ-BTP ngày 06/3/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu theo Quyết định số 1340/QĐ-BTP ngày 09/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu của Bộ Tư pháp giai đoạn 2014-2020 và Đề án Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Hệ thống THADS giai đoạn 2018-2022 khi đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Lãnh đạo hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, hành chính
- Tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp, Tổng cục, Cục THADS theo phương châm “hướng về cơ sở”, kịp thời hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của cơ sở. Nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng chống tiêu cực, tham nhũng. Nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính và theo tinh thần của Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức thực hiện nghiêm Quy chế làm việc, Quy chế dân chủ tại đơn vị. Bảo đảm nguyên tắc thứ bậc, kỷ cương và trật tự hành chính. Nghiêm túc xử lý trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới đối với Cục trưởng, Chi cục trưởng THADS để xảy ra việc công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình có hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà, tiêu cực.
- Đổi mới công tác xây dựng, ban hành, lãnh đạo thực hiện Kế hoạch công tác và giao chỉ tiêu, nhiệm vụ trong lĩnh vực THADS, hành chính hàng năm, coi đây là công cụ quan trọng trong quản lý, chỉ đạo điều hành, là căn cứ để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan THADS, bảo đảm kết quả THADS ngày càng thực chất, bền vững.
 - Hoàn thiện chế độ thống kê THADS, hành chính trên cơ sở Luật Thống kê năm 2015. Chỉ tiêu thống kê phải phù hợp, ổn định, phản ánh chính xác, trung thực, khách quan kết quả thi hành án, phục vụ kịp thời yêu cầu đánh giá, dự báo tình hình, xây dựng kế hoạch, quy hoạch, quản lý, điều hành và kiểm tra, giám sát việc triển khai các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, hành chính.
- Nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí phân biệt giữa “án tồn đọng” và án “chuyển kỳ sau”. Xây dựng cơ chế báo cáo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát đối với những vụ việc có điều kiện thi hành án nhưng kéo dài nhiều năm, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét, có phương án xử lý đối với số án không có điều kiện thi hành tồn đọng trong nhiều năm.
- Đánh giá khả năng rút ngắn thời gian thi hành án trong từng khâu, từng bước của quá trình thi hành án. Xây dựng lộ trình rút ngắn thời gian thi hành án theo tiêu chí đánh giá cải thiện môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới. Phấn đấu đến năm 2021 thời gian thi hành án tại Việt Nam là 135 ngày.
- Bảo đảm việc xác minh, phân loại chính xác, đúng pháp luật án có Điều kiện thi hành và chưa có Điều kiện thi hành. Nâng cao kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra, giám sát, công khai, minh bạch việc thực hiện các quy định về xác minh điều kiện thi hành án. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm về trình tự, thủ tục hoặc đăng tải thông tin người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành trên Cổng, Trang Thông tin điện tử THADS. 
- Tạo chuyển biến rõ rệt trong việc thu hồi tài sản cho nhà nước trong các vụ án tham nhũng, kinh tế và thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự. Đối với việc thu hồi tài sản trong những vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng gây thất thoát tài sản của Nhà nước và Nhân dân, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS phải thành lập Tổ công tác trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thi hành bản án của các cơ quan THADS địa phương. Thường xuyên báo cáo Lãnh đạo Bộ tiến độ và kết quả thi hành án đối với các vụ việc loại này. Tập trung, xử lý kịp thời khoản tiền thi hành án do phạm nhân nộp trong các Trại giam, Trại tạm giam còn tồn.
- Tập trung nâng cao hiệu quả thu hồi các khoản nợ của các tổ chức tín dụng. Các cơ quan thi hành án phải tập trung nguồn lực, có kế hoạch chi tiết để giải quyết từng vụ việc cụ thể, kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án, Bộ Tư pháp về những khó khăn, vướng mắc để kịp thời tháo gỡ, giải quyết. Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng cường chất lượng thẩm định trước khi cho vay; phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án trong việc xác minh điều kiện thi hành án và xử lý tài sản kê biên.
- Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chấn chỉnh những sai sót, vi phạm trong quá trình thẩm định giá, đấu giá tài sản kê biên và giao tài sản trúng đấu giá.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi hành án hành chính, tham mưu Chính phủ nâng cao kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan hành chính trong việc chấp hành bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật. Tổng cục, các cơ quan THADS tăng cường kiểm tra, theo dõi và kiến nghị xử lý nghiêm trách nhiệm đối với các trường hợp không chấp hành án hành chính.
- Hướng dẫn tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định của Luật Phá sản năm 2014 trong THADS. Tập trung làm rõ phạm vi trách nhiệm của cơ quan thi hành án, cơ chế phối hợp giữa Chấp hành viên và Quản tài viên trong thực hiện Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các quy định có liên quan, qua đó nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ việc phá sản.
- Nâng cao hiệu quả công tác hướng dẫn nghiệp vụ, tiếp tục hoàn thiện thể chế hướng dẫn nghiệp vụ trong nội bộ Hệ thống theo hướng nâng cao trách nhiệm của cơ quan hướng dẫn, rút ngắn thời gian hướng dẫn, lợi dụng việc xin ý kiến hướng dẫn để kéo dài thời gian thi hành án hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Sơ kết, đề xuất việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Chấp hành viên các địa phương.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong toàn Hệ thống. Các Cục, Chi cục THADS phải ban hành Kế hoạch tự kiểm tra, kiểm tra hàng năm theo hướng mỗi năm 100% Cục, Chi cục thực hiện việc tự kiểm tra; Cục THADS kiểm tra toàn diện tối thiểu 2/3 số đơn vị trên địa bàn. Tổng cục THADS phải thông báo kết quả kiểm tra của Tổng cục để kịp thời chấn chỉnh và cảnh báo, phòng ngừa những vi phạm, sai sót trong toàn Hệ thống. Tổng cục, Cục, Chi cục THADS tăng cường kiểm tra đột xuất công tác thụ lý, xác minh và phân loại án đối với các Chi cục và Chấp hành viên. Công tác thanh tra cần tập trung vào một số điểm nghẽn trong công tác THADS, đặc biệt là đấu giá tài sản kê biên.
- Nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện  nghiêm túc chế độ Thủ trưởng cơ quan đơn vị tiếp công dân định kỳ. Chi cục, Cục THADS phải tập trung giải quyết các khiếu nại, tố cáo với tinh thần trách nhiệm cao, đúng pháp luật, hạn chế phát sinh những vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Thực hiện đăng tải công khai quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 trên Cổng, Trang thông tin điện tử THADS. Thực hiện hiệu quả “Đường dây nóng” để kịp thời tiếp nhận những phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về THADS. Thường xuyên rút kinh nghiệm trong toàn Hệ thống từ những sai sót, vi phạm phổ biến được phát hiện qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tập trung triển khai cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành và tổ chức thi hành án, coi đây là giải pháp đột phá bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, nêu cao tinh thần phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện nề nếp, hiệu quả cơ chế một cửa, phải có văn bản xin lỗi và nêu rõ lý do về việc giải quyết hồ sơ quá hạn. Thực hiện nghiêm túc việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích. Nâng cao hiệu quả hỗ trợ trực tuyến thi hành án, tiến tới cung cấp dịch vụ trực tuyến mức độ 3 đối với một số thủ tục hành chính từ năm 2018. Tổ chức tập huấn, ban hành thể chế, bảo đảm đầy đủ các điều kiện kỹ thuật để vận hành Phần mềm quản lý THADS trên toàn quốc trong năm 2018. Tiếp tục phát triển hệ thống truyền hình trực tuyến đa phương tiện đến 63 địa phương, phấn đấu trong  năm 2018 có thể tổ chức giao ban, hội nghị trực tuyến đến cấp Chi cục trên toàn quốc.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành bản án. Tổng cục THADS phối hợp với Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật hướng dẫn Cục THADS các địa phương phối hợp với Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật ở địa phương có biện pháp, kế hoạch cụ thể tuyên truyền về pháp luật THADS, hành chính và pháp luật có liên quan. Đẩy mạnh công tác truyền thông báo chí, kịp thời thông tin những đóng góp của hoạt động THADS vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước; lên án, phê phán những trường hợp trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động, tích cực, tranh thủ hiệu quả kinh nghiệm của một số quốc gia và chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực THADS, hành chính, góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về THADS, hành chính của Việt Nam. Tận dụng nguồn lực hỗ trợ của các tổ chức quốc tế nhằm góp phần nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức THADS.
- Bảo đảm cơ sở vật chất, ưu tiên vốn đầu tư xây dựng cho các cơ quan chưa có trụ sở, đã xuống cấp, đặc biệt là chưa có kho vật chứng theo quy định của Luật THADS. Triển khai có hiệu quả Đề án “Đầu tư trang thiết bị phương tiện làm việc cho các cơ quan THADS giai đoạn 2016-2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 77/QĐ-TTg ngày 11/01/2016 nhằm mục tiêu đảm bảo trang thiết bị, phương tiện làm việc và công cụ hỗ trợ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, phù hợp với vị thế mới của cơ quan THADS.
Lãnh đạo công tác phối hợp liên ngành và với cấp Ủy, chính quyền địa phương
- Định kỳ tổ chức hiệu quả việc sơ kết Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS, Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS trả tiền, giấy tờ cho người được THADS là phạm nhân, Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013, Quy chế phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Bộ Tư pháp trong công tác THADS số 01/QCLN/NHNNVN-BTP ngày 18/3/2015 và các Quy chế phối hợp khác, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác phối hợp cấp trung ương và cấp địa phương, trong đó tập trung vào một số nội dung: (i) Đề nghị Tòa án nhân dân tăng cường giải thích án tuyên không rõ, có sai sót; khắc phục tình trạng chậm giải quyết việc xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung (Khoản 2 Điều 74 Luật THADS); hướng dẫn thống nhất việc không thụ lý các vụ kiện giải quyết tranh chấp về kết quả đấu giá tài sản (Điều 102 Luật THADS); (ii) Đề nghị cơ quan công an tham gia cưỡng chế thi hành án tại một số địa phương và phối hợp nâng cao hiệu quả thi hành phần dân sự tại trại giam, trại tạm giam; (iii) Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tăng cường kiểm sát việc chấp hành án của người phải thi hành án, xử lý nghiêm các trường hợp chống đối, không chấp hành bản án; tăng cường kiểm sát việc cơ quan nhà nước chấp hành các bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật. Tiếp tục rà soát, đề xuất văn bản phối hợp với một số Bộ, ngành liên quan để nâng cao hiệu quả công tác THADS.
- Nâng cao chất lượng công tác thống kê liên ngành trong lĩnh vực THADS, tổ chức sơ kết 02 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 06/2016/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/5/2016, khắc phục triệt để tình trạng không thống nhất số liệu thống kê về THADS giữa Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong các Báo cáo Quốc hội hàng năm.
- Phối hợp với Cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo việc quán triệt, triển khai nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng tại các cơ quan THADS cũng như trong hoạt động THADS trên địa bàn; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng tại các cơ quan THADS; bố trí, sắp xếp lãnh đạo cơ quan THADS vào cấp ủy địa phương; kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng và các công chức Đảng viên tại các cơ quan THADS và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các cơ quan THADS.
- Tham mưu nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp trong việc chỉ đạo tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong THADS. Chỉ đạo tổ chức hiệu quả, dứt điểm việc cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Nâng cao hiệu quả, trách nhiệm phối hợp của Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, trong việc phối hợp tổ chức thi hành án dân sự ở cơ sở.
Nguyễn Xuân Tùng


Các tin khác