Tiếp nối các phân tích về ý nghĩa chiến lược của Nghị quyết 57-NQ/TW trong kiến tạo hệ sinh thái chuyển đổi số quốc gia, kỳ này tập trung làm rõ vai trò của chuyển đổi số đối với thi hành án dân sự và ba đột phá lớn trong Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dưới góc nhìn chuyển đổi số và xã hội hóa.
II. Chuyển đổi số – động lực hiện đại hóa công tác thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là khâu cuối cùng trong quá trình thực thi quyền tư pháp, quyết định hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án. Áp dụng Nghị quyết 57-NQ/TW gắn với Nghị quyết 66-NQ/TW trong hệ thống THADS là yêu cầu khách quan để khắc phục các điểm nghẽn cố hữu, chuyển mạnh từ “làm đủ thủ tục” sang “bảo đảm kết quả thi hành”, đồng thời tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực nhạy cảm này.
1. Minh bạch hóa hoạt động, kiểm soát chặt chẽ quyền lực
Chuyển đổi số đã và đang giúp số hóa toàn bộ quy trình thi hành án, triển khai quyết định thi hành án điện tử, biên lai điện tử, hệ thống theo dõi trực tuyến. Nhờ đó:
- Toàn bộ quy trình thi hành án – từ tiếp nhận, thụ lý, xác minh, cưỡng chế đến thanh toán – đều được “hiển thị” công khai, minh bạch trên hệ thống;
- Lãnh đạo các cấp có thể giám sát theo thời gian thực, kịp thời phát hiện chậm trễ, ách tắc, bất thường;
- Giảm đáng kể “khoảng mờ” trong xử lý hồ sơ – môi trường dễ phát sinh tiêu cực, can thiệp cá nhân.
Số liệu bước đầu cho thấy: hệ thống đã thực hiện 75.455 quyết định thi hành án qua phần mềm điện tử; phát hành 375.000 biên lai điện tử, tương ứng khoảng 33.700 tỷ đồng tiền thi hành án được quản lý minh bạch trên môi trường số; rút ngắn khoảng 30% thời gian giải quyết, cắt giảm tới 80% thủ tục hành chính, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
Đây là những minh chứng sinh động cho hiệu quả của chuyển đổi số trong việc tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong công tác thi hành án dân sự.
2. Hoàn thiện thể chế số, thúc đẩy liên thông dữ liệu
Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 66-NQ/TW tạo cơ sở để hệ thống THADS chuyển từ “làm việc đơn lẻ” sang “làm việc trong hệ sinh thái dữ liệu tư pháp – hành chính”:
Dự thảo Luật THADS (sửa đổi) bổ sung điều khoản riêng về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; quy định rõ việc xây dựng, quản lý, vận hành cơ sở dữ liệu THADS;
Xác định trách nhiệm kết nối, chia sẻ dữ liệu của các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành (đăng ký đất đai, doanh nghiệp, dân cư, tài chính, ngân hàng…) với cơ sở dữ liệu THADS;
Khẳng định giá trị pháp lý của văn bản, hồ sơ điện tử, chữ ký số; tạo cơ sở để tiến tới quy trình “không giấy tờ” trong thi hành án.
Bộ Tư pháp đã giao Cục Quản lý THADS xây dựng Nền tảng số thi hành án dân sự, trong đó có: phần mềm biên lai điện tử; phần mềm hỗ trợ ra quyết định thi hành án; các phần mềm thụ lý, tổ chức thi hành án, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; cơ sở dữ liệu THADS phục vụ kết nối liên ngành.
Đồng thời, ngành đang phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để kết nối, chia sẻ dữ liệu chuyên ngành, gửi – nhận bản án điện tử qua trục liên thông văn bản, rút ngắn đáng kể thời gian từ khi bản án có hiệu lực đến khi được tổ chức thi hành.
3. Cải cách thủ tục hành chính, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm
Trên cơ sở Nghị quyết 57-NQ/TW và các nghị quyết của Chính phủ về cải cách hành chính, ngành THADS đã ban hành và triển khai Kế hoạch cải cách hành chính năm 2025, tập trung vào:
- Đơn giản hóa, cắt giảm mạnh các thủ tục liên quan đến thừa phát lại và thi hành án dân sự;
- Công bố, bãi bỏ kịp thời các thủ tục không còn phù hợp, giảm tối đa yêu cầu giấy tờ, bản sao;
- Thực hiện cơ chế “một cửa điện tử”, “một cửa liên thông”, kết hợp tiếp nhận, trả kết quả trực tuyến;
- Số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính, cập nhật vào cơ sở dữ liệu THADS.
Cục Quản lý THADS đang đẩy nhanh triển khai giao ban trực tuyến đến 355 Phòng THADS khu vực, tiến tới điều hành chủ yếu bằng hình thức trực tuyến; nghiên cứu triển khai tiếp dân trực tuyến, nhất là ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, góp phần giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận công lý của người dân.
III. Ba đột phá trong Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dưới góc nhìn chuyển đổi số và xã hội hóa
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị, Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) được xây dựng theo hướng tạo dựng các đột phá chiến lược, vừa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, vừa kiến tạo nền tảng thể chế cho quản trị hiện đại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
1. Đột phá về mô hình tổ chức – tinh gọn, phân cấp mạnh, nâng cao hiệu lực thực thi
Dự thảo Luật sắp xếp, kiện toàn hệ thống Thi hành án dân sự theo hướng tinh gọn, tập trung và phân cấp hợp lý. Triển khai mô hình “địa phương một cấp” với THADS các tỉnh, thành phố và các Phòng THADS khu vực trở thành lực lượng nòng cốt tại cơ sở, bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của đơn vị thực thi.
Việc tổ chức lại theo khu vực đồng bộ với mô hình Tòa án và Viện kiểm sát khu vực, tạo sự tương thích về phạm vi thẩm quyền, địa bàn và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp. Thực tiễn 4 tháng triển khai thí điểm cho thấy hệ thống vận hành thông suốt, nhiều địa phương hoàn thành và vượt chỉ tiêu Quốc hội giao, kể cả với các vụ việc phức tạp, giá trị lớn.
2. Đột phá về xã hội hóa – mở rộng nguồn lực, nâng cao chất lượng dịch vụ công
Dự thảo Luật bước đầu xác lập khung pháp lý đối với Văn phòng Thi hành án dân sự và Thừa hành viên – các chủ thể xã hội hóa trong lĩnh vực thi hành án dân sự – theo định hướng của Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đây là bước đi quan trọng nhằm huy động nguồn lực xã hội, giảm tải cho Nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ pháp lý.
Xã hội hóa được đặt trong khuôn khổ quản lý chặt chẽ của Nhà nước, với yêu cầu thận trọng, có lộ trình, bảo đảm kiểm soát quyền lực, tránh thương mại hóa hoạt động thi hành án. Các Văn phòng THADS cần được trao đủ công cụ pháp lý, nghiệp vụ để thực thi nhiệm vụ, không rơi vào tình trạng “giao việc nhưng không giao quyền”.
3. Đột phá về chuyển đổi số – thiết lập nền tảng thi hành án điện tử
Chuyển đổi số là đột phá mang tính quyết định, tạo nền tảng phương thức quản trị mới cho công tác thi hành án dân sự. Thực tiễn triển khai trong thời gian ngắn cho thấy: 75.455 quyết định thi hành án đã được ban hành trên phần mềm; hơn 375.000 biên lai điện tử, tương ứng khoảng 33.700 tỷ đồng, được quản lý minh bạch trên môi trường số; thủ tục hành chính cắt giảm tới 80%, thời gian xử lý giảm khoảng 30%, chi phí tuân thủ giảm khoảng 13%.
Cùng với đó, Bộ Tư pháp đang đẩy mạnh triển khai các phần mềm nghiệp vụ, cơ sở dữ liệu dùng chung và nền tảng thi hành án điện tử, tiến tới thực hiện toàn bộ quy trình thi hành án trên môi trường số. Đây là sự chuyển đổi căn bản về phương thức tổ chức, điều hành, giám sát và đánh giá công tác thi hành án dân sự theo thời gian thực.
Ba đột phá trong Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) là sự cụ thể hóa rõ nét đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia; tạo nền tảng để hệ thống Thi hành án dân sự phát triển tinh gọn, chuyên nghiệp, minh bạch và hiện đại.
IV. Định hướng, giải pháp trọng tâm và Kết luận
Để Nghị quyết 57-NQ/TW thực sự trở thành “đột phá chuyển đổi số quốc gia” trong lĩnh vực thi hành án dân sự, thời gian tới cần tiếp tục:
Hoàn thiện thể chế số, khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Luật THADS (sửa đổi) theo hướng thiết lập khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho thi hành án điện tử, quản lý dữ liệu lớn, ứng dụng AI trong nghiệp vụ;
Đầu tư hạ tầng số, phát triển nguồn nhân lực số; triển khai cấp và sử dụng bắt buộc chữ ký số trong toàn hệ thống;
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nền tảng số thi hành án dân sự, hoàn thiện các phần mềm nghiệp vụ trọng điểm;
Tăng cường liên thông, kết nối dữ liệu với các cơ quan liên quan; tích hợp thông báo thi hành án dân sự trên ứng dụng VNeID để phục vụ người dân, doanh nghiệp thuận tiện, kịp thời;
Xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC) cho ngành THADS; mở rộng làm việc trên môi trường điện tử qua hệ thống quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp.
Nghị quyết 57-NQ/TW đã định hình tầm nhìn chiến lược về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 66-NQ/TW đặt ra mệnh lệnh đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Sự kết hợp của hai nghị quyết này đang tạo ra bước ngoặt trong hiện đại hóa công tác thi hành án dân sự.
Khi chuyển đổi số được triển khai đồng bộ – từ thể chế, tổ chức bộ máy, dữ liệu, quy trình đến con người – công tác thi hành án dân sự sẽ chuyển mạnh từ “quản lý bằng hồ sơ giấy” sang “quản trị bằng dữ liệu số, giám sát thời gian thực”, phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, nhanh hơn, minh bạch hơn; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam “dân chủ, kỷ cương, công bằng, văn minh”, củng cố niềm tin của Nhân dân vào pháp luật và công lý.
Thu hằng, VP Đảng ủy