MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO VỆ CÁN BỘ ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM, DÁM CHỊU TRÁCH NHIỆM VÌ LỢI ÍCH CHUNG

10/08/2023



1. Thực trạng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Thực tế thời gian qua, bên cạnh việc xử lý nghiêm những cá nhân sai phạm, Đảng ta đồng thời luôn giữ vững quan điểm bảo vệ cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã từng có tấm gương những cán bộ lãnh đạo bản lĩnh, sáng tạo và quyết đoán trong từng quyết sách như nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc; nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh; nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) tại Long An; nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh; nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt, v.v đã đem lại những kết quả quan trọng là những minh chứng sinh động nhất.
Tiếp nối những thành công trước đây, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung (sau đây gọi là Kết luận số 14-KL/TW), trong đó nêu rõ khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm; đồng thời xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây là một chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Hơn một năm qua, chủ trương này đã và đang được các cấp, các ngành quan tâm, đón nhận, từng bước đi vào cuộc sống. Bên cạnh kết quả bước đầu, hiện tâm lý đùn đẩy trách nhiệm, an phận thủ thường đang tồn tại ở trong không ít các cơ quan, tổ chức. Cán bộ có trường hợp rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, nếu không thực hiện thì không thể hoàn thành nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó; nhưng nếu quyết tâm thực hiện lại băn khoăn lo lắng. Đi sâu tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cho rằng cần làm rõ nguyên nhân để có giải pháp phù hợp.
Qua các văn kiện của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng gồm: một là, Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; hai là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động; ba là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị và bằng công tác tổ chức, cán bộ; bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát; năm là, Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đó là những cách thức chủ yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng.
Với các phương thức trên cho thấy, Kết luận số 14-KL/TW có thể xem là các định hướng về chính sách và chủ trương lớn để thực hiện được thì phải cụ thể bằng pháp luật. Tại Hội nghị tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, đồng chí Lê Minh Trí, Uỷ viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đề cập: “…Thực tế cho thấy chính sách pháp luật phục vụ phát triển chưa nhiều so với chính sách pháp luật quản lý kiểm soát nên cần ban hành nhiều chính sách pháp luật tạo động lực phát triển, thu hút nguồn lực và khuyến khích năng động, sáng tạo; đồng thời phải đảm bảo có quy định hành lang pháp lý an toàn, hạn chế rủi ro đối với người thực hiện. Nếu có khoảng trống thì kẻ xấu sẽ lợi dụng vi phạm; còn không có hành lang pháp lý đảm bảo an toàn thì người tốt sẽ bị tâm lý lo sợ rủi ro, không dám năng động, sáng tạo, không có động lực phấn đấu trong thực hiện nhiệm vụ vì thực tế cố ý làm trái và năng động, sáng tạo hành vi là giống nhau, chỉ khác ở chỗ hậu quả hay hiệu quả mà thôi…” Cùng với những nội dung trên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kiến nghị: “ kiến nghị Tổng Bí thư, Bộ Chính trị xem xét trình Trung ương có Nghị quyết, có chủ trương và giao cho Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành tập trung rà soát và kịp thời ban hành các văn bản pháp lý cần thiết, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất và đầy đủ trong hệ thống pháp luật đảm bảo được 2 yêu cầu: Kỷ cương, chặt chẽ và có hành lang pháp lý đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro để tạo động lực phát triển đất nước… Thực tiễn luôn vận động không dừng và chờ luật sửa đổi, bổ sung hay không? Do đó, chúng ta có thể ban hành Nghị định, Thông tư hoặc văn bản quy phạm hướng dẫn tạm thời để giải quyết kịp thời những vướng mắc, bất cập trong thực tế, nếu không lại phát sinh hậu quả mới. Vừa qua, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nhưng buộc tội thì bằng pháp luật, có chương, có điều khoản cụ thể nên Kết luận số 14-KL/TW cần tiếp tục chỉ đạo cụ thể hóa hơn nữa, chắc cũng phải bằng chương, điều khoản mới có thể đạt được mục đích đề ra”.
Vấn đề cụ thể hóa thành pháp luật nhưng phương thức cụ thể cũng là điều đáng phải bàn. Báo cáo số 442/BC-CP ngày 01/10/2020 của Chính phủ về kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước cho rằng, thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ; hệ thống pháp luật vẫn còn những hạn chế về chất lượng văn bản, vẫn còn những vướng mắc bất cập tại một số lĩnh vực như đất đai, điều kiện kinh doanh, thị trường vốn, xây dựng, nhà ở, quy hoạch. Báo cáo số 282-BC/ĐĐQH15 ngày 21/10/2021 của Đảng đoàn Quốc hội chỉ ra các nội dung cần rà soát mà các cơ quan của Quốc hội đề nghị nghiên cứu, làm rõ bao gồm 32 nhóm (98 vấn đề) liên quan đến các luật ngoài Báo cáo số 442/BC-CP và 13 nội dung trong Báo cáo số 442/BC-CP. Như vậy, thực trạng hiện nay cho thấy, hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay đã được xây dựng tương đối đầy đủ nhưng lại có chỗ thừa, chỗ thiếu, có mâu thuẫn, chồng chéo ở một số lĩnh vực, khía cạnh. Do đó, khi tiến hành cụ thể hóa Kết luận số 14-KL/TW, ta cần lưu ý tạo ra khung pháp lý vừa đủ làm “bệ phóng” khuyến khích cán bộ năng động sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, “lá chắn” bảo vệ cho cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, và “kiểm soát” để cán bộ giữ vững được lập trường, quan điểm khi triển khai thực hiện với mục đích, động cơ trong sáng.
2. Một số giải pháp khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Bối cảnh, tình hình trong nước và quốc tế cho thấy đổi mới sáng tạo là vấn đề sống còn hiện tại của Đảng ta. Trước đây, trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, chống cái nghèo, cái đói, đổi mới phát triển đất nước thì tinh thần dân tộc, dám nghĩ dám làm, dám vì lợi ích chung của cán bộ, Đảng viên trên toàn quốc được thể hiện một cách mạnh mẽ, rõ rệt, tuy có nơi có chỗ có những trường hợp cá biệt nhưng nhìn chung tinh thần đó đã phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ và phát triển đất nước. Tuy tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay được nhận định là tích cực, có nhiều điểm sáng nhưng còn đó những nguy cơ tiềm ẩn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vào năm 1994 vẫn tồn tại, thậm chí có ý kiến cho rằng, 4 nguy cơ này còn có mặt gay gắt hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ diễn biến hòa bình của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Hiện nay, thế giới đang diễn ra nhiều thay đổi khó dự báo, tác động trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng và là đòi hỏi bức thiết, là xu hướng chung của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới nhưng trên thực tế, cuộc chiến Nga - Ukraina và chiến tranh thương mại đã và đang diễn biến khó lường, gây ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình chính trị, kinh tế của các quốc gia. Tình hình khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. các nước lớn tiếp tục giữ vai trò chi phối cục diện thế giới, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế và ngăn chặn lẫn nhau. Toàn cầu hóa đang thúc đẩy di cư trên toàn thế giới, sự già hóa dân số, dữ liệu và công nghệ phát triển theo cấp số nhân cũng đã thay đổi mọi khía cạnh trong cuộc sống. Trước thách thức xã hội ngày càng tăng, từ yêu cầu của người dân đối với chất lượng dịch vụ công ngày càng cao hơn, trong khi sự hạn chế về ngân sách cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, buộc các chính phủ phải tìm đến những phương án và cách làm mang tính đổi mới sáng tạo, hiệu quả cao hơn với chi phí thấp, góp phần cung cấp dịch vụ đáp ứng kỳ vọng và xây dựng niềm tin của người dân vào hệ thống chính quyền, vừa hỗ trợ tốt hơn cho khu vực tư nhân, tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế[1]. Trên thực tế, đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu toàn cầu đã chứng minh các chính phủ đã không thể tự mình hay theo cách truyền thống để giải quyết các vấn đề phức tạp mà cần đổi mới sáng tạo kịp thời, mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa để không chỉ bắt kịp với tốc độ thay đổi mà còn phản ứng linh hoạt, thậm chí có tầm nhìn đi tắt đón đầu trước những sự thay đổi phát triển của thế giới.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất toàn cầu; tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia, dân tộc. Đồng thời, Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới trong một không gian rộng mở xóa nhòa khoảng cách thế giới thực và không gian mạng, tạo ra những cơ hội chưa từng có cho sự phát triển vượt bậc của quốc gia nào có thể đi tắt đón đầu những lợi ích mà Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
Với bối cảnh, tình hình đó, một số giải pháp để khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung nhằm thực hiện Kết luận 14 như sau:
Thứ nhất, kịp thời thể chế hóa, triển khai chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung tại Kết luận 14
Kết luận số 14-KL/TW đã nêu rõ về phương thức khuyến khích và bảo vệ là trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung thì cán bộ đề xuất đổi mới, sáng tạo phải báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị quan tâm hỗ trợ nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ triển khai thực hiện.
Trong một số ít trường hợp, đề xuất đổi mới sáng tạo được cấp có thẩm quyền ghi nhận cho thí điểm đã nhận được thành công. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, việc cho thực hiện hoặc thí điểm một số cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn được cho là trái với quy định của pháp luật hiện hành, có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc trong thi hành công vụ của công chức tại Điều 3 Luật Cán bộ, công chức là tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tức là chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép nên kể cả trường hợp việc cho thực hiện hoặc thí điểm một số cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách chưa có quy định của pháp luật thì công chức đó cũng đã vi phạm Luật Cán bộ, công chức hiện hành. Đặc biệt khi Đảng, Nhà nước đang đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, sai phạm thì tâm lý đùn đẩy trách nhiệm, an phận thủ thường, ngại va chạm, tránh né dẫn tới muốn giữ thân mình đang là vấn đề cần phải bàn kỹ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Do đó, giải pháp cần thiết là phải kịp thời thể chế hóa, xây dựng văn bản triển khai chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung theo Kết luận số 14-KL/TW để làm “lá chắn” bảo vệ cho cán bộ, vượt qua tâm lý sợ sai, ngại va chạm, an phận thủ thường của một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay, cụ thể:
Một là, cần khẩn trương xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định cơ chế thí điểm chính sách áp dụng trong phạm vi toàn quốc dưới hình thức Luật hoặc chí ít cũng phải bằng Nghị quyết của Quốc hội. Kết luận số 14-KL/TW đã đưa ra chủ trương yêu cầu cán bộ phải báo cáo đề xuất đổi mới sáng tạo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về quy trình, cách thức để người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác quyết định cho phép thực hiện hoặc thực hiện thí điểm khi chủ trương này khoog phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ, Chủ tịch UBND huyện không thể cho phép thí điểm thực hiện đề xuất trái với Nghị định của Chính phủ. Kết luận số 14-KL/TW đã nêu đề xuất đổi mới sáng tạo cần được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, nhưng chưa chỉ ra cụ thể cơ quan có thẩm quyền ở đây là ai? Điều này cần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng cũng như đảm bảo các yếu tố ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội và đặc thù các công việc chuyên môn cao.
Việc xây dựng cơ chế thí điểm chính sách cũng sẽ góp phần tạo thuận lợi cho việc phát triển các các sản phẩm tài chính sáng tạo, sản phẩm ứng dụng công nghệ và mô hình kinh doanh mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Nghiên cứu cho thấy có nhiều quốc gia, trong đó có Anh, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Hà Lan, Adu Dhabi, Malay, Hongkong, Úc, Canada, Singapore, Brazil,… đã và đang phát triển, cho phép ứng dụng khung pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox), cho phép thử nghiệm trực tiếp, giới hạn thời gian của các đổi mới dưới sự giám sát điều chỉnh. Việt Nam không thể chậm chân vì thực tế, các hoạt động liên quan đổi mới sáng tạo, mô hình kinh tế mới vẫn diễn ra hằng ngày tại Việt Nam, nhưng nhiều doanh nghiệp phải “tị nạn” sang các nước để đăng ký kinh doanh, hoặc vẫn ở Việt Nam nhưng hoạt động với hình thức khác.
Do đó, cần kịp thời có quy định tạo hành lang pháp lý khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo vì lợi ích chung, giải tỏa cho được tâm lý sợ làm sai với quy định hiện hành, sợ bị xử lý trách nhiệm, mặc dù rất cố gắng giải quyết khó khăn, thách thức với một động cơ trong sáng. Trong đó, cần có quy định chi tiết về thẩm quyền, cách thức, phạm vi, thời gian, không gian, quy mô, đối tượng cho phép thực hiện hoặc thực hiện thí điểm đề xuất đổi mới sáng tạo, đảm bảo có sự đánh giá, giám sát, điều tiết, báo cáo kết quả thí điểm kịp thời, thường xuyên, đồng thời có cơ chế khen thưởng, kỷ luật phù hợp.
Hai là, phải xác định rõ việc thể chế theo hướng nào: Thực tiễn cho thấy quy trình sửa đổi các quy định pháp luật của nước ta hiện nay khá phức tạp, kéo dài. Cùng với đó các vấn đề vướng mắc, phức tạp cần đổi mới không phải tất cả đều phải do Quốc hội, Chính phủ quyết định mà nhiều vấn đề xuất phát từ các bộ, ngành ở Trung ương và địa phương. Vì vậy cần xác định nguyên tắc “vướng ở cấp nào thì cấp đấy cho chủ trương” và “vướng ở văn bản nào thì do chính cơ quan ban hành ra văn bản đó phải là người sửa đổi, tháo gỡ hoặc cho chủ trương thực hiện”.
Ba là, tổ chức một đợt tổng rà soát các văn bản và đề xuất sửa đổi tháo gỡ khó khan, vướng mắc từ các văn bản. Trên cơ sở đó, nội dung nào tháo gỡ được ngay thì tiến hành sửa ngay. Nội dung nào cần thêm thời gian để đánh giá thì cho tiến hành thí điểm trước. Đây cũng là biện pháp, giải pháp để thực hiện một trong ba đột phá chiến lược đã được đề cập trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Thứ hai, đẩy mạnh quán triệt sâu rộng việc thực hiện Kết luận số 14-KL/TW. Thực tiễn đã minh chứng chủ trương đúng nhưng khâu thực hiện không hiệu quả thì cũng không mang liệu quả gì. Vì vậy, với vai trò là cơ quan chủ trì, tham mưu tổ chức thực hiện, Ban Tổ chức Trung ương cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, đôn đốc, đề ra các biện pháp, giải pháp để đưa Kết luận số 14-KL/TW đi vào cuộng sống. Chỉ khi chủ trương này hằn sâu vào trong nếp nghĩ, cách làm thì mới thực sự phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, trong Kết luận số 14-KL/TW có nhiều chủ trương của Bộ Chính trị đối với công tác cán bộ. Do đó, để kịp thời triển khai thực hiện trong phạm vi toàn quốc, Ban Tổ chức Trung ương cần xây dựng hướng dẫn hoặc Kế hoạch thực hiện để các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, các cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương có lộ trình triển khai cụ thể. Cần tổ chức một đợt phát động sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị với nội dung, hình thức phù hợp về những tư tưởng, những giải pháp đổi mới sáng tạo, cách làm hay theo định hướng của Kết luận số 14-KL/TW.
Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu.
Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, công tác tư tưởng luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu, phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Để thực hiện mục đích đó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ là những người lo trước thiên hạ, mà còn phải khổ trước thiên hạ, còn phải dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng. Đã tự nguyện làm công bộc của dân, thề suốt đời hy sinh, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân thì lợi ích của cán bộ, đảng viên phải đặt trong lợi ích chung của dân, của nước.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua cho thấy nhiều cán bộ, Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, thể hiện qua nhiều vụ đại án. Ngoài ra, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đang có những diễn biến tích cực dẫn đến một bộ phận Đảng viên có tâm lý chủ quan, chưa nhận thức rõ 4 nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra, trong khi Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, nay là Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng tại cuộc họp báo quốc tế sau đại hội khi nói về vấn đề này cũng khẳng định: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII tháng 1.1994 chỉ ra thì những năm vừa qua Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tích cực đấu tranh, ngăn ngừa. Tuy nhiên, hiện nay các nguy cơ này vẫn còn tồn tại, bên cạnh đó có thể còn có một số mặt diễn biến phức tạp hơn”. Do đó, trong thời gian tới, cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung để khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên “dám” vì lợi ích chung, vì sự phát triển đất nước với mục đích trong sáng.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả, kết quả công việc của cán bộ, loại trừ những cán bộ sợ trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi bộ máy tổ chức; phải có chính sách khen thưởng và cơ chế bảo vệ tương xứng.
Bên cạnh giải pháp trên, quan tâm, đánh giá thực chất đội ngũ cán bộ là một yêu cầu bắt buộc. Thực tiễn cho thấy, đánh giá cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác cán bộ, là khâu tiền đề, là cơ sở để lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ. Đánh giá đúng sẽ phát huy được khả năng của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ; ngược lại, đánh giá không đúng sẽ dẫn đến bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ sai, ảnh hưởng không tốt cho cơ quan, đơn vị. Mặc dù có vai trò rất quan trọng, nhưng thời gian qua, công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, còn nhiều “điểm nghẽn”, hạn chế rất cần tháo gỡ để thực sự là “bệ phóng” cho cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Do đó, cần hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật hiện hành về đánh giá hiệu quả, kết quả công việc của cán bộ, gắn kết chặt chẽ giữa kết quả đánh giá cán bộ, công chức, viên chức với các chính sách tiền lương, tiền thưởng, khen thưởng, kỷ luật, tôn vinh, thăng tiến, lượng hóa các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở mỗi vị trí việc làm và tăng cường nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đánh giá cán bộ, có cơ chế loại trừ những cán bộ sợ trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi bộ máy tổ chức.
Kịp thời khen thưởng những trường hợp đặc biệt xuất sắc, nhất là những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Hiện nay Nhà nước ta đã có chế độ khen thưởng đối với những người có thành tích trong học tập, lao động và công tác. Tuy nhiên, các quy định này cũng chỉ mới dừng ở mức độ động viên, chưa thật sự là động lực để khuyến khích những người có năng lực nổi trội để tìm tòi, đưa ra những phát minh sáng kiến. Đồng thời cần có cơ chế bảo vệ được thể chế hóa và cần có mức độ cụ thể để dễ dàng trong thực hiện. Đây cũng chính là phần thưởng xứng đáng cho những người có tư tưởng đổi mới, sáng tạo, dãm nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Phạm Minh Đức - VPTC
 

[1] Tạp chí điện tử lý luận chính trị. Tầm quan trọng, cơ hội và thách thức đối với đổi mới sáng tạo trong khu vực công. , truy cập ngày 30/7/2023.