1. Căn cứ pháp lý
Hiện nay, bán đấu giá tài sản thi hành đang quy định bởi pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về đấu giá tài sản, cụ thể là:
- Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành: việc bán đấu giá tài sản được quy định cụ thể tại các Điều 101, 102, 103, 104 Luật THADS; Điều 27, 31 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP; bên cạnh đó, việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản đã được Tổng cục THADS hướng dẫn chi tiết tại Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án kèm theo Quyết định số 1079/QĐ-TCTHADS ngày 25/12/2020 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS.
- Luật Đấu giá tài sản năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành: việc bán đấu giá tài sản trong THADS cũng được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Đấu giá tài sản năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản.
2. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án
Trên cơ sở các quy định về trình tự, thủ tục đấu giá được quy định tại Luật Đấu giá tài sản thì có thể chia việc đấu giá tài sản thi hành án thành 03 giai đoạn: (i) Lựa chọn và ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản; (ii) Tổ chức thực hiện việc đấu giá tài sản; (iii) Xử lý kết quả cuộc đấu giá.
2.1. Lựa chọn và ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản
a) Lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản
- Do đương sự lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản: Theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS thì đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. Theo quy định của Luật Đấu giá tài sản hiện nay có hai loại tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, đó là: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập và Doanh nghiệp đấu giá tài sản (Công ty đấu giá hợp danh).
- Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản: Khoản 2 Điều 101 Luật THADS quy định trường hợp đương sự không thỏa thuận được tổ chức bán đấu giá tài sản thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Tại điểm a khoản 3 Điều 101 Luật THADS quy định Chấp hành viên bán đấu giá trong trường hợp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Quy định này được hiểu là trong trường hợp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản nếu có tổ chức bán đấu giá thì Chấp hành viên phải lựa chọn tổ chức bán đấu giá trên địa bàn đó. Tuy nhiên, tại điểm d khoản 4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản quy định chung về điều kiện của các tổ chức đấu giá tài sản để được lựa chọn ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Theo đó, tổ chức đấu giá có tên trong danh sách tổ chức đấu giá do Bộ Tư pháp công bố sẽ được lựa chọn mà không giới hạn theo địa bàn. Vì vậy, hiện đang có quan điểm khác nhau về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản.
Theo quy định của Điều 56 Luật Đấu giá tài sản thì đối với tài sản thi hành án việc lựa chọn tổ chức đấu giá phải được thông báo công khai trên trang thông tin điện tử của Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Trang Thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản. Khi thông báo công khai về việc lựa chọn tổ chức đấu giá, Chấp hành viên cần đưa ra các thông tin và yêu cầu sau để các tổ chức đấu giá biết: Tên, địa chỉ của cơ quan THADS (hoặc Chấp hành viên) có tài sản bán đấu giá; Tên tài sản, số lượng, chất lượng của tài sản đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản đấu giá; Tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản; Thời gian, địa điểm nộp hồ sơ đăng ký tham gia tổ chức đấu giá.
Tại khoản 4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản đã đưa ra các tiêu chí lựa chọn Tổ chức đấu giá tài sản bao gồm: Cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết bảo đảm cho việc đấu giá đối với loại tài sản đấu giá; Phương án đấu giá khả thi, hiệu quả; Năng lực, kinh nghiệm và uy tín của tổ chức đấu giá tài sản; Thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản phù hợp; Có tên trong danh sách các tổ chức đấu giá tài sản do Bộ Tư pháp công bố; Các tiêu chí khác phù hợp với tài sản đấu giá do người có tài sản đấu giá quyết định.
Mặc dù, Luật Đấu giá tài sản đã đưa ra các tiêu chí để lựa chọn tổ chức đấu giá, tuy nhiên các tiêu chí đó đều mang tính chất định tính nên trong một số trường hợp việc lựa chọn thường mang tính chất chủ quan.
Do vậy, tại Quy trình Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án kèm theo Quyết định số 1079/QĐ-TCTHADS ngày 25/12/2020 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS đã xây dựng Bảng tiêu chí đánh giá, chấm điểm các tổ chức đấu giá tài sản cụ thể; theo đó Chấp hành viên cần thực hiện việc chấm điểm các tiêu chí gồm 04 phần: Năng lực pháp lý; năng lực kinh nghiệm; năng lực tài chính và tiêu chí khác. Bên cạnh đó, tại Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản cũng đã quy định cụ thể các tiêu chí đánh giá, lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, danh mục các tiêu chí, số điểm đánh giá từng tiêu chí giữa Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án kèm theo Quyết định số 1079/QĐ-TCTHADS và Thông tư số 02/2022/TT-BTP đang có sự khác nhau. Do đó, Chấp hành viên cần lưu ý thực hiện việc đánh giá, chấm điểm để lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo Bảng tiêu chí đánh giá, chấm điểm tổ chức bán đấu giá tài sản kèm theo Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
b) Ký hợp đồng dịch vụ đấu giá
- Chủ thể ký hợp đồng dịch vụ đấu giá bao gồm: Một bên là Chấp hành viên đang trực tiếp tổ chức thi hành án; một bên là Giám đốc Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản hoặc người đại diện theo pháp luật (hoặc người đại diện theo ủy quyền) của Doanh nghiệp đấu giá tài sản phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thời hạn ký hợp đồng bán đấu giá tài sản: Tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS thời hạn ký hợp đồng bán đấu giá tài sản là 10 ngày, kể từ ngày định giá (theo Quyết định số 1079/QĐ-TCTHADS là kể từ ngày nhận được Chứng thư thẩm định giá).
- Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản gồm một số nội dung chính như sau: chủ thể ký kết hợp đồng; tài sản đấu giá; điều kiện để tham gia đấu giá tài sản; giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá phải đúng với giá do các đương sự thỏa thuận hoặc giá theo chứng thư thẩm định giá; khoản tiền đặt trước; về bước giá; hình thức đấu giá, phương thức đấu giá; về thời hạn, địa điểm tổ chức cuộc đấu giá; thanh toán tiền mua tài sản; giao tài sản đấu giá cho người trúng đấu giá; thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản; quyền và nghĩa vụ của các bên; việc đơn phương hủy bỏ, chấm dứt hợp đồng, tránh nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp; các thỏa thuận khác.
2.2. Trình tự, thủ tục đấu giá tài sản thi hành án
- Ban hành quy chế cuộc đấu giá:Tại khoản 1 Điều 34 Luật Đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu giá phải ban hành Quy chế cuộc đấu giá áp dụng cho từng cuộc đấu giá trước ngày niêm yết việc đấu giá. Quy chế cuộc đấu giá cần có đầy đủ các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật Đấu giá tài sản.
- Niêm yết việc đấu giá tài sản:
* Địa điểm, thời gian niêm yết
(i) Đối với tài sản thi hành án là động sản: Tổ chức đấu giá phải thực hiện niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở của tổ chức mình, nơi trưng bày tài sản (nếu có) và nơi tổ chức cuộc đấu giá ít nhất là 07 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá. Trường hợp các bên thỏa thuận đấu giá theo thủ tục rút gọn tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản ít nhất là 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá.
(ii) Đối với tài sản là bất động sản: Tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở của tổ chức mình, nơi tổ chức cuộc đấu giá và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản đấu giá ít nhất là 15 ngày trước ngày mở cuộc đấu giá; trường hợp các bên thỏa thuận đấu giá theo thủ tục rút gọn tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản ít nhất là 05 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá.
* Các thông tin phải niêm yết: Tên, địa chỉ của tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá; Các nội dung chính của quy chế cuộc đấu giá theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản 2 Điều 34 Luật Đấu giá tài sản.
* Trách nhiệm lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết đấu giá tài sản
Tổ chức đấu giá tài sản lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết đấu giá tài sản trong hồ sơ đấu giá. Đối với trường hợp niêm yết tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản đấu giá thì tổ chức đấu giá tài sản lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết hoặc lập văn bản có xác nhận về việc niêm yết của Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Thông báo công khai việc đấu giá tài sản
Đối với tài sản thi hành án là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần trên báo in của trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản; mỗi lần thông báo công khai cách nhau ít nhất 02 ngày làm việc. Thời gian thông báo công khai lần thứ hai ít nhất là 07 ngày làm việc với tài sản là động sản, 15 ngày đối với tài sản là bất động sản trước ngày mở cuộc đấu giá.
Trường hợp tài sản được thỏa thuận đấu giá theo thủ tục rút gọn thì tổ chức đấu giá tài sản thông báo công khai một lần việc đấu giá tài sản trên báo in hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá.Việc thông báo công khai trong trường hợp này được thực hiện đồng thời với việc niêm yết đấu giá tài sản.
- Tổ chức cho xem tài sản đấu giá: Tổ chức đấu giá tổ chức cho người tham gia đấu giá trực tiếp xem tài sản hoặc mẫu tài sản kể từ ngày niêm yết cho đến khi mở cuộc đấu giá trong khoảng thời gian liên tục 02 ngày.
- Tổ chức đăng ký tham gia đấu giá: Tổ chức đấu giá phải cử người bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày.
- Tổ chức cuộc đấu giá: Về thời gian, địa điểm, hình thức và phương thức đấu giá phải được thực hiện theo thỏa thuận đã được ghi nhận tại hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản và các quy định của Luật Đấu giá tài sản.
Việc điều hành cuộc đấu giá phải do đấu giá viên thực hiện. Diễn biến cuộc đấu giá phải được ghi vào biên bản đấu giá và được lập tại cuộc đấu giá và có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá, người ghi biên bản, người trúng đấu giá, Chấp hành viên, đại diện của những người tham gia đấu giá. Biên bản đấu giá được đóng dấu của tổ chức đấu giá tài sản.
2.3. Xử lý kết quả cuộc đấu giá
Theo quy định tại Điều 45 Luật Đấu giá tài sản: Trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc cuộc đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản phải ghi kết quả đấu giá tài sản vào Sổ đăng ký đấu giá tài sản và thông báo bằng văn bản cho người có tài sản đấu giá. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc cuộc đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản chuyển kết quả đấu giá tài sản, biên bản đấu giá, danh sách người trúng đấu giá cho người có tài sản đấu giá để ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Luật Đấu giá tài sản thì người có tài sản đấu giá thực hiện lưu trữ hồ sơ đấu giá. Như vậy, trong thời hạn 03 ngày sau khi cuộc đấu giá kết thúc, Chấp hành viên phải yêu cầu tổ chức đấu giá chuyển toàn bộ hồ sơ đấu giá cho cơ quan THADS để thực hiện việc lưu trữ theo quy định.
+ Trường hợp đấu giá thành: Hiện nay pháp luật về THADS, pháp luật về đấu giá tài sản không quy định thời hạn cụ thể buộc phải ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 được sửa đổi tại Nghị định số 33/2020/NĐ-CP thì thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày trúng đấu giá thì người mua trúng đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan THADS. Do đó, khi tài sản thi hành án được bán đấu giá thành Chấp hành viên cần phải thực hiện việc ký kết hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá.
+ Trường hợp đấu giá không thành: Chấp hành viên thực hiện việc giảm giá hoặc yêu cầu người được thi hành án nhận tài sản theo quy định tại Điều 104 Luật THADS.
3. Một số lỗi thường gặp trong bán đấu giá tài sản
- Chấp hành viên chậm ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức đấu giá để thực hiện việc bán đấu giá tài sản. Đây là lỗi phổ biến nhất trong quá trình thực hiện thủ tục đưa tài sản thi hành án ra bán đấu giá.
- Không thông báo công khai về việc lựa chọn tổ chức đấu giá trên cổng thông tin điện tử của Cục THADS.
- Lựa chọn tổ chức đấu giá không đảm bảo (như trụ sở không đảm bảo, có nhiều vi phạm về trình tự, thủ tục đấu giá trước đó).
- Nội dung hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản có nhiều điều chưa phù hợp với Luật Đấu giá tài sản và Luật THADS như: Hợp đồng không xác định thời gian tổ chức đấu giá hoặc để tổ chức đấu giá lựa chọn ngày tổ chức đấu giá; không ghi rõ nội dung, tình trạng pháp lý của tài sản đưa ra bán đấu giá.
- Hiện nay, quy định về việc Chấp hành viên giám sát quá trình bán đấu giá chưa rõ nên nhiều trường hợp tổ chức đấu giá có vi phạm nhưng Chấp hành viên không nắm được hoặc không có cơ sở để dừng việc đấu giá tài sản theo quy định. Nhiều trường hợp, Chấp hành viên tự quyết định dừng việc đấu giá dẫn đến đương sự khiếu nại, tố cáo và ảnh hưởng đến việc tổ chức bán đấu giá.
- Tổ chức đấu giá gây khó dễ, tạo sức ép, thậm chí có phản ánh là đe dọa đối với người muốn tham gia để họ từ bỏ việc tham gia đấu giá khi tổ chức đấu giá muốn bán cho người khác.
- Tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cơ quan THADS thực hiện việc thu tiền mặt của người mua trúng đấu giá là chưa phù hợp.
- Tổ chức bán đấu giá cho người không đủ điều kiện tham gia đấu giá theo quy định của pháp luật và trúng đấu giá, nhất là trường hợp bán đấu giá là quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất dự án. Trường hợp này, lỗi của Chấp hành viên thường là thiếu giám sát.
- Quá trình thực hiện đấu giá tài sản, tổ chức đấu giá có nhiều vi phạm như: Thực hiện không đúng quy định về thông báo, niêm yết bán đấu giá; đăng báo không đúng về bán đấu giá tài sản; ghi biên bản không đúng quy định tại cuộc đấu giá; việc bán hồ sơ tham gia đấu giá tại một vài tổ chức có biểu hiện chưa minh bạch, dẫn tới khiếu kiện, tranh chấp..., còn có dấu hiệu thông đồng, dìm gia nhưng rất khó phát hiện và xử lý.
4. Một số lưu ý trong hoạt động bán đấu giá
- Xác định việc sử dụng kết quả thẩm định giá khi đưa tài sản thi hành án ra bán đấu giá: Thời điểm sử dụng kết quả thẩm định giá trong hoạt động THADS được xác định là thời điểm ký Hợp đồng Dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án. Cơ quan THADS phải sử dụng kết quả thẩm định giá trong thời hạn Chứng thư quy định (từ thời điểm ban hành Chứng thư đến thời điểm ký Hợp đồng Dịch vụ bán đấu giá tài sản), nếu vượt quá thời hạn trên thì phải thực hiện lại thủ tục thẩm định giá.
- Về khái niệm người có tài sản đấu giá: Khoản 5 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản 2016 quy định khái niệm người có tài sản đấu giá là người có tài sản đấu giá là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tại Điều 101 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên là người ký Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá hoặc Chấp hành viên là người có quyền bán tài sản kê biên.
Như vậy theo quy định nêu trên, trong hoạt động thi hành án dân sự người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo quy định của pháp luật là Chấp hành viên. Tuy nhiên, pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Chấp hành viên chưa có quy định rõ về quyền đưa tài sản thi hành án ra bán đấu giá. Do đó, trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện thể chế về pháp luật thi hành án dân sự (sửa đổi Luật THADS) cần nghiên cứu quy định cụ thể, rõ ràng hơn để Chấp hành viên có đủ quyền theo quy định của pháp luật.
- Về quyền và nghĩa vụ của người có tài sản đấu giá
Hiện nay, quyền và nghĩa vụ của người có tài sản đấu giá được quy định tại Điều 47 Luật Đấu giá tài sản 2016. Chấp hành viên với tư cách là người có tài sản đấu giá thì có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 47 nêu trên. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định này, phát sinh một số khó khăn, vướng mắc cần lưu ý:
Thứ nhất, về quyền “giám sát quá trình tổ chức thực hiện việc đấu giá”: Việc giám sát này được thực hiện cả quá trình bán đấu giá tài sản (từ khi ký hợp đồng đến khi thanh lý hợp đồng). Tuy nhiên, pháp luật về THADS cũng như pháp luật về đấu giá tài sản chưa có quy định cách thức thực hiện giám sát. Do đó, có thể hiểu việc giám sát này là quyền của người có tài sản, người có tài sản được quyền lựa chọn hình thức, cách thức thực hiện việc giám sát (trực tiếp, gián tiếp, yêu cầu báo cáo…), nhằm mục đích nắm được thông tin cần thiết.
Thứ hai, về quyền “yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản dừng việc tổ chức đấu giá khi có căn cứ cho rằng tổ chức đấu giá tài sản có hành vi vi phạm quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 9 của Luật này”. Điểm b, điểm c khoản 2 Điều 9 của Luật Đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu giá tài sản không được thực hiện các hành vi thông đồng, móc nối để làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá, dìm giá, làm sai lệch hồ sơ đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản; Cản trở, gây khó khăn cho người tham gia đấu giá.
Tuy nhiên, hiện nay trên thực tế chưa có quy định để Chấp hành viên xác định như thế nào là có căn cứ cho rằng tổ chức bán đấu giá có hành vi vi phạm, cụ thể: Trường hợp khi Chấp hành viên nhận được thông tin phản ánh của đương sự, người có quyền nghĩa vụ liên quan về việc tổ chức đấu giá tài sản có hành vi thông đồng, móc nối, cản trở, gây khó khăn thì đơn thư phản ánh này có được xem là căn cứ để Chấp hành viên yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản dừng việc tổ chức đấu giá hay tạm dừng để thực hiện việc xác minh làm rõ. Mặt khác, trường hợp Chấp hành viên yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản dừng việc tổ chức đấu giá, nhưng sau đó xác định không có căn cứ cho rằng tổ chức bán đấu giá vi phạm thì trình tự, thủ tục bán đấu giá tiếp theo được thực hiện như thế nào, tiếp tục cuộc đấu giá đó (kéo dài thời gian nộp hồ sơ tham gia đấu giá để bù vào thời gian dừng) hay thực hiện lại thủ tục từ đầu của lần bán đấu giá tài sản đó.
Luật Đấu giá tài sản hiện hành cũng chưa có quy định người có tài sản bán đấu giá (Chấp hành viên) có quyền yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản dừng việc tổ chức đấu giá trong trường hợp khi có quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, tạm dừng việc thi hành án để giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền vì đối với các trường hợp này, cơ quan thi hành án dân sự phải dừng tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (trong đó có thủ tục bán đấu giá tài sản).
Thứ ba, về quyền đơn phương chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: Theo quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản thì “5. Người có tài sản đấu giá hoặc tổ chức đấu giá tài sản có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về dân sự trước khi tổ chức đấu giá tài sản nhận hồ sơ tham gia đấu giá của người tham gia đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Người có tài sản đấu giá có quyền hủy bỏ Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản. Kết quả đấu giá tài sản bị hủy theo thỏa thuận giữ người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy theo quy định tại hoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì người có tài sản đấu giá không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản sau khi đã bán đấu giá thành. Trường hợp Hợp đồng mua bán tài sản đã được công chứng mà nay muốn hủy bỏ thì có thể thỏa thuận hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản, quy định của Bộ luật dân sự, Luật Công chứng hoặc khởi kiện ra Tòa án để hủy bỏ hợp đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản và quy định của Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên, vướng mắc hiện nay của cơ quan thi hành án dân sự là trường hợp đã bán đấu giá thành nhưng quá trình tổ chức thi hành án có vi phạm xét thấy cần thiết phải hủy kết quả bán đấu giá để bảo đảm quyền lợi của đương sự nhưng pháp luật về thi hành án dân sự cũng như pháp luật về đấu giá tài sản chưa có quy định rõ biện pháp giải quyết đối với các văn bản (Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án, kết quả bán đấu giá, Hợp đồng mua bán tài sản thi hành án) dẫn đến vẫn có nhiều quan điểm khác nhau: quan điểm chỉ cần hủy bỏ Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án thì đương nhiên kết quả bán đấu giá, hợp đồng mua bán tài sản thi hành án hết giá trị; cũng có quan điểm Hợp đồng mua bán tài sản thi hành án chỉ được hủy bỏ nếu có thỏa thuận hoặc phải khởi kiện ra Tòa án.
- Về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên. Điểm d khoản 4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản quy định chung về điều kiện của các tổ chức đấu giá tài sản để được lựa chọn ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Theo đó, tổ chức đấu giá có tên trong danh sách tổ chức đấu giá do Bộ Tư pháp công bố sẽ được lựa chọn mà không giới hạn theo địa bàn.
Trong khi đó, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 101 Luật THADS quy định Chấp hành viên bán đấu giá trong trường hợp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau giữa các ngành trong việc lựa chọn, ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản đối với các tổ chức trong hay ngoài địa bàn nơi có tài sản.
- Về ký Hợp đồng mua bán tài sản
Hiện nay, pháp luật chưa quy định trong thời hạn bao lâu khi có biên bản bán đấu giá thành thì Chấp hành viên phải ký Hợp đồng mua tài sản trúng đấu giá. Trong quá trình thực hiện, có vụ việc ở một số địa phương để từ 1 đến 2 năm chưa ký Hợp đồng mua tài sản. Việc chậm ký sẽ phát sinh nhiều hệ lụy của cả 2 bên nhất là việc xác định trách nhiệm của mỗi bên cũng như trường hợp vi phạm nghĩa vụ thì căn cứ nào để có tài phán cho phù hợp. Do vậy, trong quá trình thực hiện, đề nghị ngay sau khi có biên bản đấu giá hợp lệ theo quy định tại Điều 44 Luật Đấu giá, Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục để ký Hợp đồng mua tài sản với người mua trúng đấu giá để làm căn cứ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ cũng như đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi phát sinh tranh chấp (nếu có).
- Thanh toán các khoản nghĩa vụ nợ tiền thuê đất, các khoản thuế thu nhập cá nhân của người phải thi hành án với nhà nước
+ Vấn đề thanh toán các khoản nợ thuế sử dụng đất (số tiền nợ, số tiền được miễn, giảm), thuế thu nhập cá nhân của người phải thi hành án trong trường hợp bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đang là vấn đề gặp vướng mắc, chưa có quan điểm giải quyết thống nhất của các cơ quan ban ngành. Do đó, đối với những trường hợp này, trước mắt, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan THADS cần lưu ý thực hiện các tác nghiệp sau:
Phối hợp với các cơ quan thuế, cơ quan liên quan để xác định các khoản nghĩa vụ về thuế của người phải thi hành án với nhà nước, khoản thuế thu nhập cá nhân mà người phải thi hành án phải nộp khi chuyển nhượng tài sản.
Đưa nội dung thông tin về các khoản nghĩa vụ nêu trên vào trong Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản, khi tổ chức bán, Chấp hành viên, tổ chức bán đấu giá thông báo công khai nội dung về các khoản nghĩa vụ trên để người đăng ký mua tài sản nắm được thông tin về tình trạng tài sản.
Báo cáo xin ý kiến thống nhất các ban, ngành về quan điểm giải quyết, đồng thời, tạo điều kiện để các bên đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thỏa thuận giải quyết những vướng mắc để thi hành dứt điểm vụ việc.
- Riêng đối với trường hợp thi hành án bản án liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp bảo đảm của các tổ chức tín dụng (đã được xác định khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14) thì khi thực hiện thanh toán tiền thi hành án về nguyên tắc các khoản tiền thuế nêu trên cũng không được ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên, Tổng cục đã có Công văn số 2004/TCTHADS-NV1 ngày 03/7/2019 hướng dẫn Tổ chức tín dụng có trách nhiệm thỏa thuận với các bên liên quan về cách thức thanh toán các khoản thuế, phí./.
Đậu Thị Hiền - Vụ Nghiệp vụ 1