Trao đổi về một số nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

27/05/2024


Trong thời đại mới, khi môi trường pháp lý ngày càng phức tạp và yêu cầu về chất lượng thi hành án dân sự càng cao, việc xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương trở nên hết sức cần thiết. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp không chỉ góp phần nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho người dân.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo Người, cán bộ là một vấn đề trọng yếu, cán bộ quyết định mọi công việc, cán bộ là gốc của mọi công việc. Nếu đời sống kinh tế, chính trị, xã hội được coi như một “cỗ máy” thì cán bộ là “dây chuyền”, là “cầu nối” đặc biệt trong cỗ máy đó. Cán bộ là người hoạch định, xây dựng chính sách cũng là người giải thích cho dân chúng hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ, giáo dục động viên, tập hợp quần chúng tham gia tích cực vào phong trào cách mạng và cũng chính là người đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Chính vì thế, nếu “dây chuyền” không tốt, không chạy thì động cơ có tốt, bộ máy cũng tê liệt, “dây chuyền” đó dở thì chính sách của Đảng, của Chính phủ có hay mấy cũng không thực hiện được, thậm chí việc hoạch định chính sách sẽ gặp khó khăn, có thể sai lầm. Theo Người, “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [1,tr356]. Người cũng cho rằng “Công việc thành hay bại một phần lớn là nơi do tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí” [2, tr 415].
Do đó, theo Người, cán bộ, đảng viên phải có đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp và phong cách, trong đó, Người đặc biệt coi trọng đạo đức cách mạng, bởi vì đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng.  Người cách mạng phải có đạo đức, “không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [3, tr 252]. Người cho rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [5, tr 601].
Một trong những yếu tố của “đức” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là liêm chính. Liêm chính là sự tôn trọng và tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật, không vi phạm trong công tác. Trong bài báo “Thế nào là Liêm?”, Người cho rằng: “Liêm là trong sạch, không tham lam”(1), là liêm khiết, là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân. Người nhấn mạnh: “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”(2). Do đó, đối với mỗi cán bộ, đảng viên khi “dám hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho đồng bào, hy sinh vì nghĩa, thì không tham gì hết”(3). “Liêm” là một phẩm chất đạo đức của con người, thể hiện qua lối sống trong sạch, không hám danh, không bận tâm toan tính nhỏ nhen, ích kỷ. Năm 1949, trong tác phẩm “Cần kiệm liêm chính” với bút danh Lê Quyết Thắng đăng trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Liêm” của ngày xưa để chỉ “những người làm quan không đục khoét dân”, còn “Liêm” ngày nay có nghĩa rộng hơn và “mọi người đều phải Liêm”, “… Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải Liêm”(4). Đồng thời, Người cũng cho rằng, “Liêm” cần đi đôi với “Kiệm” bởi vì “có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất Liêm”(5).
Theo Người, người cán bộ có đạo đức nhưng lại phải có tài. Cán bộ chỉ có đức mà thiếu tài thì cũng chẳng khác nào “những ông bụt ngồi ở trong chùa”. Có tài,  theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cả năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn. Muốn có được những năng lực đó, người cán bộ phải chịu khó học tập, rèn luyện, trước hết là học tập lý luận Mác - Lênin, sau đó phải chịu khó lăn lộn trong thực tiễn. Bởi vì theo Người, lý luận luôn được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
Có đức, có tài vẫn chưa đủ. Người cán bộ còn phải có phong cách công tác khoa học. Theo Người, muốn có phong cách công tác khoa học phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái; chống bệnh ham chuộng hình thức, chỉ nhằm về hình thức bề ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai; chống cách làm việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi “chỉ tay năm ngón”, không chịu đi thực tế địa phương để nắm bắt tình hình, không lấy kết quả chăm lo đời sống Nhân dân làm thước đo.
2. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương trong tình hình hiện nay
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm được Đảng xác định trong nhiệm kỳ Đại hội XII là: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”. Đặt trong bối cảnh hiện nay của các yếu tố cần có của một người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thì đức và tài, cũng như phong cách công tác khoa học của người cán bộ được thể hiện bằng sự trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong sạch không chỉ đơn thuần là không tham nhũng mà còn đòi hỏi cán bộ phải không có những hành vi tiêu cực khác như lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân. Vững mạnh ở đây không chỉ đề cập đến sức khỏe thể chất mà còn là nghị lực, sự kiên trì, không ngại khó khăn, thách thức trong công việc. Liêm chính là sự tôn trọng và tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật, không vi phạm trong công tác. Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương không chỉ đòi hỏi việc đảm bảo chất lượng về mặt số lượng mà còn cần phải đáp ứng đúng nhu cầu, yêu cầu của công tác thi hành án dân sự. Điều này đòi hỏi cán bộ thi hành án phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc thi hành án dân sự, cán bộ thi hành án phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có khả năng nắm bắt, cập nhật thường xuyên những thay đổi trong pháp luật. Đồng thời, cán bộ thi hành án cũng cần phải có kỹ năng chuyên môn như kỹ năng giải quyết vụ việc, kỹ năng giao tiếp, đàm phán...
Những nhiệm kỳ gần đây, việc cả hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng cũng như Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận số 12-KL/TW ngày 6/4/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực… gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; gắn với Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”… đã tạo bước tiến rõ nét trong phòng, đấu tranh chống tham nhũng và kiểm soát quyền lực Nhà nước. Từ đó, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, kiểm soát quyền lực Nhà nước không chỉ được chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ để từng bước kiềm chế, ngăn chặn tham nhũng, mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ. Thực tế, quyết tâm đẩy mạnh phòng, đấu tranh chống tham nhũng nghiêm túc, hiệu quả và việc thưc thi kiểm soát quyền lực Nhà nước, thể hiện tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật, mà minh chứng là hàng loạt vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý (nhất là những vụ án được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trực tiếp chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử) đã cho thấy quyết tâm lớn, nỗ lực cao và sự đồng lòng, nhất trí, ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng, vẫn còn hiện tượng cá nhân vi phạm trong hoạt động thực thi công vụ; can thiệp, làm cản trở hoặc tác động trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan, hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; thậm chí nhận lợi ích bằng vật chất và phi vật chất để làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác. Thực tế, tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực đã và đang trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tham nhũng, tiêu cực trong công tác điều tra, tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác. Do vậy, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát quyền lực để phòng và chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, tố tụng, thi hành án là cần thiết để cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt hiệu quả thiết thực. Vì thế, Quy định 132 gồm 4 chương, 14 điều, trong đó không chỉ nêu rõ nội dung, nguyên tắc, phương thức kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án, mà còn đồng thời chỉ rõ trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là người đứng đầu trong kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án… đã ra đời. Điều 6, Quy định 132 đã liệt kê cụ thể 28 hành vi lợi dụng lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và một số các hành vi khác theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì một trong những yếu tố trọng yếu là phổ biến, quán triệt, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm soát, kiểm tra đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự địa phương để tuyệt đối không vi phạm Quy định 132:
(1) Tổ chức thực hiện nghiêm trong toàn Hệ thống THADS về 06 nguyên tắc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án:
(i) Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng; sự giám sát của cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hành pháp, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
(ii) Bảo đảm mọi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn.
 (iii) Bảo đảm tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật, quy định, quy chế làm việc, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan.
 (iv) Bảo đảm công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
(v) Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
(vi) Tuân thủ các chủ trương, quy định của Đảng và các quy định của pháp luật có liên quan.
(2) Tổ chức thực hiện tốt 05 phương thức kiểm soát trong hoạt động thi hành án dân sự: (i) Lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử để kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thi hành án và các hoạt động khác có liên quan; (ii) Lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tự phê bình và phê bình, trách nhiệm nêu gương, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và các biện pháp khác kiểm soát quyền lực, phòng ngừa vi phạm, tham nhũng, tiêu cực; công tác giải quyết kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thi hành án và các hoạt động khác có liên quan; công tác tự kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án và các hoạt động khác có liên quan; (iii) Lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án và các hoạt động khác có liên quan theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan THADS; (iv) Kiểm tra, giám sát, thanh tra, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; việc chấp hành chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử; việc giải quyết kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thi hành án dân sự theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (v) Lãnh đạo, chỉ đạo về chủ trương xử lý các vụ án, vụ việc theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Yêu cầu kiểm tra, xem xét lại các quyết định của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án dân sự theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
(3) Kiểm soát chặt từ nội bộ. Theo đó, Tổng cục THADS thực hiện kiểm soát đối với các cơ quan THADS thông qua các hoạt động quản lý nhà nước như: (i) Ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về THADS, thi hành án hành chính, văn bản cá biệt, văn bản quy phạm nội bộ theo quy định của pháp luật; (ii) Tổ chức kiểm tra: Việc thực hiện trình tự, thủ tục và áp dụng pháp luật trong hoạt động THADS, quản lý thi hành án hành chính, đôn đốc thi hành án hành chính; Chế độ thống kê và báo cáo về THADS, quản lý thi hành án hành chính, đôn đốc thi hành án hành chính; Việc thu, chi tiền, giao, nhận tài sản trong THADS; việc thu, nộp các khoản phí, lệ phí và chi phí tổ chức cưỡng chế THADS; Giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật THADS, quản lý thi hành án hành chính, đôn đốc thi hành án hành chính; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong THADS, quản lý thi hành án hành chính, đôn đốc thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật; (iii) Theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực THADSvà thi hành án hành chính; (iv) Theo dõi việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị của VKSND liên quan đến hoạt động THADS, đôn đốc thi hành, án hành chính. Trả lời kháng nghị, kiến nghị của VKSND theo quy định; (v) Phối hợp với cơ quan liên quan thực hiện thanh tra về quản lý THADS, quản lý thi hành án hành chính và xử lý hành vi không chấp hành án theo quy định của pháp luật.
Tổng cục chủ động nắm tình hình những Cục có nhiều hạn chế yếu kém về tổ chức, hoạt động THADS; Cục trưởng chủ động nắm tình hình những Chi cục có nhiều hạn chế yếu kém về tổ chức, hoạt động THADS để có biện pháp chấn chỉnh, tăng cường kiểm soát, hỗ trợ.
(4) Kiểm soát chặt chẽ qua từng khâu của hoạt động THADS
- Lãnh đạo, chỉ đạo việc ra quyết định thi hành án đúng pháp luật, chính xác căn cứ, nội dung được đưa ra thi hành, đảm bảo các bản án, quyết định sớm được đưa ra thi hành trên thực tế theo đúng quy định của pháp luật.
- Xác minh điều kiện thi hành án, phân loại việc chưa có điều kiện và ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành đầy đủ, kịp thời, chính xác. Việc phân loại án được thực hiện đảm bảo đúng quy định pháp luật là sự phản ánh tỉ lệ giải quyết án của từng Chấp hành viên, từng đơn vị.
- Đối với án có điều kiện thi hành: Thủ trưởng cơ quan THADS tập trung kiểm tra 100% hồ sơ đang tổ chức thi hành của từng Chấp hành viên. Việc kiểm tra phải có phiếu kiểm tra (kết quả kiểm tra có ký xác nhận của người kiểm tra, phê duyệt của Lãnh đạo Cục), hướng khắc phục sai phạm (nếu có), dự kiến kế hoạch thực hiện thời gian tới. Trường hợp hồ sơ chậm thực hiện thì phải khắc phục ngay. Nếu cố tình vi phạm thì kiểm điểm xử lý nghiêm (trường hợp đến mức kỷ luật thì phải xử lý kỷ luật, nếu không đáp ứng yêu cầu thì miễn nhiệm Chấp hành viên).
Rà soát, đánh giá, xây dựng kế hoạch để tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc có điều kiện, đặc biệt là các vụ việc có giá trị lớn, các vụ việc thu hồi tiền, tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các vụ việc thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo; các vụ việc thi hành các khoản thu có liên quan đến tổ chức tín dụng có giá trị trên 20 tỷ đồng, có điều kiện thi hành, đã quá 03 năm chưa thi hành xong; kiểm soát chặt chẽ số vụ việc có điều kiện thi hành án, đã ra quyết định thi hành án quá 01 năm chưa thi hành xong, số việc chuyển sổ theo dõi riêng:
 + Bảo đảm Thủ trưởng cơ quan THADS phải kiểm soát 100% vụ việc liên quan đến đấu giá tài sản; thực hiện rà soát chặt chẽ quy trình thủ tục THADS, hồ sơ pháp lý của tài sản đưa ra bán đấu giá (nhất là hồ sơ pháp lý liên quan đến người thứ 3; tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; tài sản của hộ gia đình; tài sản chung của vợ chồng; tài sản doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu; tài sản hình thành trong tương lai; đất nông nghiệp; các tài sản theo quy định người mua phải kèm theo điều kiện; tài sản gắn liền với đất thuê có thời hạn,v.v), dự liệu trước khả năng phải bàn giao được tài sản, không tùy tiện bán cho xong, cho được mà không lường trước hậu quả. Hồ sơ chưa đúng, chưa đủ quy trình, thủ tục thì chưa tiến hành đấu giá. Cục trưởng, Chi Cục trưởng phải kiểm soát chặt chẽ nội dung này. Nếu để xảy ra các sai phạm thì Chấp hành viên và Thủ trưởng cơ quan THADS cùng chịu trách nhiệm.
Kiểm soát chặt việc tổ chức thẩm định giá, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để xác định mức giá cao hoặc thấp nhằm nâng khống hoặc dìm giá tài sản tùy theo lợi ích của các cá nhân, đơn vị liên quan; hành vi thông đồng với chủ tài sản, khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá làm sai lệch kết quả thẩm định giá. Xử lý hoặc kiến nghị xử lý nghiêm hành vi thông đồng của chủ tài sản, khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá làm sai lệch kết quả thẩm định giá.
Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan THADS phải bảo đảm kiểm soát đối với 100% vụ việc liên quan đến đấu giá tài sản; yêu cầu rà soát toàn bộ hồ sơ, quy trình thực hiện nghiêm túc, đúng quy định pháp luật và nội dung được tuyên của bản án, quyết định. Nếu để xảy ra các sai phạm thì Chấp hành viên, sẽ xem xét, quy trách nhiệm liên đới của Thủ trưởng cơ quan THADS theo quy định.
Thực hiện nghiêm quy định về đăng tải công khai thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản, chấm điểm, thông báo kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản, Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án (ban hành theo Quyết định số 1079/QĐ-THADS ngày 25/12/2020 của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS). Nghiêm cấm việc chưa hết thời gian thông báo công khai lựa chọn tổ chức đấu giá trên Cổng thông tin điện tử của đơn vị và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản đã thực hiện việc chấm điểm và thông báo kết quả lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản. Nội dung thông báo bán đấu giá tài sản cần nêu rõ ràng, cụ thể về diện tích, vị trí thửa đất… để đảm bảo việc đăng tải công khai, minh bạch thông tin về tài sản đưa ra bán đấu giá. Thủ trưởng cơ quan THADS tự mình hoặc phân công 01 công chức hằng ngày truy cập và theo dõi mục Thông báo công khai việc đấu giá tài sản, Thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản trên địa bàn mình được đăng tải trên Cổng/trang thông tin điện tử THADS và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản để kịp thời phát hiện những bất thường, sai phạm trong công tác này.
Đối với các vụ việc đã bán đấu giá thành cần lập kế hoạch chi tiết đối với từng vụ việc, để sớm bàn giao dứt điểm cho người mua trúng đấu giá. Trường hợp hồ sơ có vướng mắc, cần phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, báo cáo Ban chỉ đạo THADS cùng cấp để giải quyết dứt điểm. Quyết tâm giảm dần số lượng các vụ việc đã bán đấu giá thành nhưng chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Cục trưởng, Chi cục trưởng Chi cục THADS chủ động đề xuất với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp kiểm sát trước đối với các hồ sơ vụ việc thi hành án, đặc biệt với 100% hồ sơ án tham nhũng kinh tế, án TDNH và các vụ việc trước khi đưa ra bán đấu giá để đảm bảo từng vụ việc được thi hành đúng quy định của pháp luật, hạn chế hậu quả sai phạm, bồi thường nhà nước.
+ Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Tổng Cục trưởng về kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên đối với án có điều kiện trên 01 năm chưa thi hành xong; định kỳ tổng hợp gửi báo cáo về Tổng cục THADS theo quy chế báo cáo. Thống kê chính xác vụ việc loại này, làm rõ nguyên nhân, có giải pháp nhằm kéo giảm, thu hẹp dần lượng việc chuyển kỳ sau, nghiêm cấm tình trạng lựa chọn việc dễ, sao nhãng việc khó.
Trên cơ sở báo cáo của các Cục, Tổng cục sẽ thẩm tra, tổ chức kiểm tra đột xuất đối với đơn vị kết quả đạt thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, lượng việc chuyển kỳ sau còn nhiều và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp bỏ hồ sơ, không tác nghiệp hoặc chậm thi hành án do nguyên nhân chủ quan của Chấp hành viên. Xem xét trách nhiệm đối với Cục trưởng nếu buông lỏng quản lý dẫn đến sai phạm, tồn tại, yếu kém.
+ Chỉ đạo hướng dẫn trong việc ra quyết định cưỡng chế và cưỡng chế THADS theo đúng quy định. Chú trọng thực hiện đúng pháp luật về xác minh trong THADS làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đúng pháp luật, như: yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án; kê khai rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Tránh tình trạng lúng túng trong thực hiện trình tự, thủ tục cưỡng chế và xây dựng kế hoạch cưỡng chế. Đảm bảo có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong cưỡng chế THADS. Không để xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không đúng nhằm trì hoãn việc cưỡng chế THADS.
- Đối với án chưa có điều kiện thi hành: Thủ trưởng cơ quan THADS cần kiểm tra rà soát chính xác án chưa có điều kiện tại đơn vị. Rà soát kỹ các điều kiện để xác định án chưa có điều kiện, bảo đảm phân loại chính xác 100%. Các trường hợp phân loại chưa chính xác thì rà soát, điều chỉnh, thực hiện theo đúng quy định. Trường hợp cố tình làm không đúng thì xử lý nghiêm.
- Đối với các vụ việc thuộc diện chủ động, thi hành các khoản thu cho ngân sách Nhà nước, chỉ đạo Chấp hành viên định kỳ xác minh điều kiện thi hành án theo quy định. Tuyệt đối không được để tình trạng án chưa có điều kiện thì không tác nghiệp. Trường hợp phát hiện đương sự có tài sản phải tổ chức thi hành ngay. Đối với các vụ việc đủ điều kiện xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, cần phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định.
- Đối với các vụ việc đưa vào sổ theo dõi riêng: Tiến hành kiểm tra chính xác tổng số việc, số tiền đưa vào diện theo dõi riêng tại đơn vị, bảo đảm việc đưa vào sổ theo dõi riêng được thực hiện đúng 100% theo quy định. Cập nhật diễn biến thường xuyên đối với loại án này. Tiến hành công khai và chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện tác nghiệp theo quy định; các trường hợp biến động, thay đổi thì cần điều chỉnh ngay. Định kỳ hàng tháng, Thủ trưởng cơ quan THADS chỉ đạo thống kê, cập nhật kỹ đối với loại án này, khi đưa vào sổ theo dõi riêng cần phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để thường xuyên kiểm sát, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định.
- Đối với án đã thi hành xong: Thực hiện kiểm tra rà soát, đưa vào lưu trữ, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định. Nghiêm cấm tình trạng án chưa thực hiện xong đã đưa vào lưu trữ.
- Kiểm soát chặt chẽ việc quản lý, sử dụng tiền thi hành án, các chứng từ sổ sách kế toán như: Việc Biên lai ghi đúng nội dung về người nộp thay; xác định đúng người thu tiền; quản lý, cấp phát sử dụng Biên lai chặt chẽ; không được tẩy xóa, sửa chữa biên lai; nộp các khoản thu ngân sách đúng thời hạn; Sổ quỹ tiền mặt của Thủ quỹ hàng năm phải chốt, khóa sổ đúng quy định; lập Bảng kê tiền mặt khi xuất quỹ; chi cho đương sự kịp thời; việc thu phí thi hành án; xử lý kịp thời khoản tiền do Trại giam chuyển đến thu của người phải thi hành án; việc thông báo trả tiền cho đương sự và gửi tiết kiệm; việc hoàn tiền tạm ứng chi phí cưỡng chế.
Việc thu tiền của người phải thi hành án cơ bản áp dụng phương thức chuyển khoản, thu tại cơ quan, sử dụng chứng từ biên lai điện tử.
- Coi trọng công tác quản lý, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ trong thi hành án dân sự. Gắn trách nhiệm cụ thể của Thủ trưởng cơ quan THADS đối với việc quản lý kho vật chứng ( kịp thời đề xuất xây dựng, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, kiểm kê, xử lý vật chứng, đảm bảo an ninh, an toàn, vệ sinh môi trường kho vật chứng…); trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc nhập kho, xuất kho; trách nhiệm của kế toán nghiệp vụ trong tiếp nhận, bảo quản và xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ; trách nhiệm của Thủ kho vật chứng; trách nhiệm của Bảo vệ nhằm đảm bảo an toàn kho vật chứng.
(5) Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp, kiểm soát chặt chẽ đối với thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế
(i) Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
(ii) Tăng cường phối hợp, chỉ đạo phối hợp hiệu quả giữa các các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thu hồi tài sản.
(iii) Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; kịp thời phát hiện, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý nghiêm những sai phạm, tiêu cực trong công tác thu hồi tài sản.
(iv) Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức làm công tác thu hồi tài sản có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, trình độ chuyên môn cao, nhất là lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, công nghệ cao...; kiên quyết xử lý nghiêm, không bao che, dung túng những cán bộ trong đơn vị có sai phạm.
(v) Dự liệu, xây dựng kịch bản để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đúng, đủ, hiệu quả các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các vụ việc lớn, phức tạp như vụ Alibaba, Vụ vạn thịnh phát, v.v.
(vi) Đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án tham nhũng, kinh tế để tránh tình trạng các đối tượng vi phạm có thời gian hợp lý hóa hoặc tiêu hủy các tài liệu, chứng cứ liên quan, cất giấu, tẩu tán tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt do phạm tội về tham nhũng, kinh tế; phải có kế hoạch triển khai kịp thời, hiệu quả các biện pháp xác minh, truy nguyên, truy tìm tài sản từ sớm, nâng cao hiệu quả hoạt động khám xét để phát hiện, thu giữ tài sản; chú trọng công tác hỏi cung, ghi lời khai để vận động các đối tượng giao nộp tài sản để hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Kịp thời áp dụng biện pháp khác ngoài kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản như: yêu cầu ngăn chặn giao dịch, chuyển nhượng đối với động sản, bất động sản, cổ phiếu và tài sản khác có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng.
(6) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động thi hành án tín dụng, ngân hàng:
(i) Tập trung rà soát đảm bảo 100% hồ sơ thi hành án tín dụng, ngân hàng (TDNH) được phân loại chính xác. Đối với các vụ việc có điều kiện thi hành nhưng chưa thi hành xong cần tiếp tục rà soát, đánh giá đúng tính chất của vụ việc. Nếu chậm tiến độ do nguyên nhân chủ quan, Thủ trưởng cơ quan THADS cần làm rõ và xử lý nghiêm Chấp hành viên vi phạm, không để tình trạng không tác nghiệp hồ sơ. Xác định việc hoàn thành đạt và vượt chỉ tiêu về án TDNH. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành theo hướng chủ động, quyết liệt, sâu sát đối với từng hồ sơ thi hành án TDNH, đề ra kế hoạch thực hiện cụ thể, rõ ràng, nêu cao tinh thần trách nhiệm của Chấp hành viên, tuyệt đối tuân thủ Quy trình tổ chức thi hành án, các quy định của pháp luật THADS và pháp luật có liên quan.
Kiểm soát chặt chẽ quá trình bán đấu giá, hồ sơ tài sản thi hành án để sau khi bán thành công phải giao được tài sản đối với 100% các vụ việc. Tuyệt đối không để xảy ra xâm tiêu tiền tại các cơ quan THADS. Việc đẩy nhanh tiến độ nâng cao hiệu quả thi hành các vụ việc liên quan đến án TDNH và kiểm soát toàn diện về hồ sơ, quy trình, thủ tục, thu chi tiền trong THADS là nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong năm 2024 và trong các năm tiếp theo.
(ii) Chủ động thành lập các đoàn kiểm tra chuyên đề về tiến độ thực hiện chỉ đạo, kết hợp hướng dẫn (chú trọng các vụ việc có chỉ đạo của Lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo Bộ), phải kiểm tra, đánh giá tình hình, đề xuất biện pháp giải quyết tại các Chi cục, đặc biệt là các Chi cục mà nhiều năm tỷ lệ thi hành quá thấp so với yêu cầu đặt ra. Kiện toàn và phát huy vai trò của Tổ công tác chỉ đạo, xử lý các vụ việc liên quan đến TDNH tại Cục và các Chi cục.
(iii) Kịp thời biểu dương khen thưởng đối với đơn vị, cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ; phổ biến kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thi hành án của các đơn vị tốt đến các đơn vị khác để tham khảo thực hiện.
(7) Thực hiện đầy đủ, quyền hạn, trách nhiệm đối với các cơ quan trong THADS, THAHC:
(i) Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định đó để thi hành;
(ii) Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật theo quy định tại Điều 23 Luật THADS.
(iii) Chấp nhận hoặc không chấp nhận kiến nghị, kháng nghị của VKSND theo quy định tại Điều 23 Luật THADS; trường hợp không chấp nhận kiến nghị, kháng nghị thì cơ quan THADS có quyền nêu rõ lý do, giải trình làm rõ nội dung.
(iv) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định.
(8) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với công tác THADS, THAHC theo hướng sâu sát, chất lượng và hiệu quả
(i) Tổ chức rút kinh nghiệm trong toàn Hệ thống THADS về công tác kiểm tra (nhất là những tồn tại, hạn chế, yếu kém). Cấp ủy, Thủ trưởng các đơn vị từ Tổng cục THADS, Cục THADS, Chi cục THADS tiếp tục thực hiện hiệu quả các văn bản, Nghị quyết, Chương trình hành động của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Đảng ủy Tổng cục THADS, Quy chế kiểm tra trong THADS và các quy định về kiểm tra, Kế hoạch kiểm tra hàng năm; thường xuyên quán triệt nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra trong cấp ủy, Lãnh đạo cơ quan, đơn vị để đánh giá, giám sát kết quả thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ. Chú trọng bố trí lực lượng làm công tác kiểm tra có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác kiểm tra.
(ii) Tổng cục THADS tăng cường công tác kiểm tra đối với công tác THADS, THAHC theo hướng sâu sát, chất lượng, hiệu quả, đúng quy định; rà soát các quy trình, quy chế nội bộ, chủ động sửa đổi, bổ sung đảm bảo tính khả thi, đồng bộ; chỉ đạo xây dựng, tổ chức thực hiện Kế hoạch kiểm tra hàng năm trong Hệ thống THADS có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng tự kiểm tra, kiểm tra đột xuất, kiểm tra nội bộ; kiểm tra địa bàn, lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm dễ xảy ra tiêu cực, có vấn đề; tăng cường kiểm tra công tác phân loại án, công tác thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, việc tổ chức thi hành các vụ việc liên quan đến thu hồi tài sản cho Nhà nước, nhất là các vụ việc do Ban chỉ đạo Trung ương và địa phương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi. Chủ động thực hiện kiểm tra đối với Cục THADS cấp tỉnh; có biện pháp chấn chỉnh, xử lý trách nhiệm người đứng đầu Cục THADS thực hiện không hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra; chỉ đạo, yêu cầu các Cục THADS thực hiện biện pháp khắc phục vi phạm; xử lý nghiêm các trường hợp phát hiện sau kiểm tra.
Tổng cục THADS chỉ đạo các Cơ quan THADS tổ chức tự kiểm tra toàn diện các mặt công tác giai đoạn từ năm 2016 đến hết năm 2023 để tổng hợp báo cáo Ban cán sự đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp. Việc thực hiện tự kiểm tra phải Kết luận theo đúng mẫu theo Quy chế kiểm tra. Cục trưởng Cục THADS chịu trách nhiệm trước Ban cán sự đảng Bộ, Lãnh đạo Bộ, trước pháp luật về kết quả kiểm tra của các đơn vị quản lý theo thẩm quyền. Trường hợp qua tự kiểm tra, kết luận không phát hiện sai phạm mà các đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm sát kiểm tra lại phát hiện sai phạm thì sẽ xem xét trách nhiệm tăng nặng. Trên cơ sở báo cáo tổng hợp của Tổng cục THADS, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp sẽ chỉ đạo thành lập các đoàn kiểm tra kết quả tự kiểm tra của địa phương.
(iii) Các Cục THADS xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra theo chỉ đạo của Tổng cục THADS; chịu trách nhiệm kiểm tra đối với các Phòng thuộc Cục và các Chi cục THADS trực thuộc; yêu cầu đơn vị có hành vi vi phạm thực hiện biện pháp khắc phục, nhất là những lĩnh vực nhạy cảm, dễ sai phạm như công tác phân loại án, thẩm định giá, đấu giá tài sản, việc thu, chi tiền thi hành án, quản lý tang vật, tài sản tạm giữ; xử lý nghiêm các trường hợp phát hiện sau kiểm tra; có biện pháp chấn chỉnh, xử lý trách nhiệm của tập thể, cá nhân trên địa bàn tỉnh, thành phố thực hiện không hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra.
Chi cục THADS triển khai tự kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị từ năm 2016 đến hết năm 2023. Tiếp tục tăng cường công tác tự kiểm tra ngay từ giai đoạn đầu và từng khâu của quá trình THADS của Chấp hành viên, hạn chế tối đa việc để xảy ra các vi phạm. Tăng cường phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát ngay những vụ việc liên quan đến thẩm định giá, bán đấu giá tài sản THADS trước khi đưa ra bán đấu giá.
(iv) Các cơ quan THADS tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm Chương trình hành động số 87-CTr/BCSĐ ngày 28/6/2023 của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong THADS giai đoạn 2023-2026 và Kế hoạch triển khai thực hiện của đơn vị mình; Kế hoạch phòng, chống tham nhũng tiêu cực, sai phạm trong hệ thống THADS hàng năm, Thông báo số 23/TB-TCTHADS ngày 19/01/2023 về kết luận của Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS về việc tiếp tục chủ động phòng ngừa, xử lý nghiêm sai phạm, tiêu cực, tham nhũng trong hệ thống THADS. Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về sai phạm, tiêu cực, tham nhũng xảy ra trong phạm vi lĩnh vực, đơn vị, địa bàn được giao quản lý.
(v) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của BTV Đảng ủy, BCH Đảng bộ Bộ Tư pháp, Đảng ủy Tổng cục THADS, cấp ủy cơ sở đối với các cấp ủy, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống THADS; tiếp tục công tác thanh tra; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên, cá nhân có hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực được quy định tại Điều 6 Quy định Quy định 132-QĐ/TW. 
(9) Tăng cường công tác tự phê bình và phê bình, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, xây dựng văn hóa liêm chính và biện pháp khác phòng ngừa các hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS
(i) Nâng cao nhận thức của mỗi cấp ủy, Thủ trưởng các đơn vị, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, về vai trò, trách nhiệm nêu gương của mình trong kiểm soát quyền lực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị.
(ii) Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị. Nghiêm túc chấp hành các quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp
(iii) Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần chú trọng lắng nghe, tiếp thu, giải trình, giải quyết các phản ánh về các hành vi tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị mình. Tiếp tục thực hiện nghiêm Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/2/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.
(iv) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn và có phẩm chất đạo đức, kỷ cương, liêm chính; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Thực hiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; chấn chỉnh, khắc phục ngay những biểu hiện đùn đẩy, né tránh, làm việc cầm chừng, sợ sai không dám làm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
(v) Kiên quyết xử lý nghiêm đối với các trường hợp sai phạm.
(10) Chú trọng phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan trong hệ thống chính trị để kiểm soát quyền lực đối với công tác THADS
(i) Chủ động yêu cầu kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động thi hành án dân sự, hành chính để kiểm soát tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.
(ii) Chú trọng kiểm soát của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với hoạt động thi hành án. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện nghiêm Quy định 132-QĐ/TW; phối hợp dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, tạo điều kiện thuận lợi phát huy vai trò của tổ chức chính trị - xã hội việc thực hiện Quy định số 132-QĐ/TW trong hoạt động THADS. Tranh thủ sự chỉ đạo của Cấp ủy, Ban chỉ đạo THADS; sự phối hợp, ủng hộ của chính quyền địa phương, Công an; kịp thời báo cáo Ban chỉ đạo THADS tổ chức họp liên ngành địa phương để tìm biện pháp đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc có điều kiện thi hành; trường hợp cần thiết báo cáo Tổng cục THADS đối với các vụ việc phát sinh khó khăn, vướng mắc.
(iii) Tăng cường kiểm soát của các cơ quan quyền lực Nhà nước như Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan khác
Phạm Minh Đức – Phó Bí thư Đoàn cơ sở Tổng cục THADS