1. Khó khăn vướng mắc trong thi hành quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa
Tại Điều 135 Luật Thi hành án dân sự quy định về
việc thi hành quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa như sau:
“1. Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa thì việc thi hành được thực hiện theo quyết định giám đốc thẩm và bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa.
2. Đối với phần bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới không bị hủy, bị sửa mà chưa được thi hành thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án; nếu đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Tòa án đã ra quyết định giám đốc thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự.
3. Đối với phần bản án, quyết định của Tòa án hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản.
Trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.
Trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản.
Trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị hủy, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Quá trình tổ chức thi hành án đối với trường hợp trên hiện còn cách hiểu và áp dụng khác nhau. Ví dụ đối với việc thi hành án sau đây.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của Tòa án nhân dân quận A, thành phố X về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lệ M, bị đơn bà Nguyễn Thị Kim S và người có yêu cầu độc lập bà Võ Thị Đ. Tuyên xử (trích):
Bác toàn bộ đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lệ M và yêu cầu độc lập của bà Võ Thị Đ về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 166, 167, 168 ngày 29/3/2007 giữa bà Nguyễn Thị Lệ M và bà Nguyễn Thị Kim S là vô hiệu ….
Tại Bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố X tuyên (trích):
Sửa bản án sơ thẩm Tòa án nhân dân quận A. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo, yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lệ M đối với bà Nguyễn Thị Kim S. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo, yêu cầu khởi kiện đối với người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập của bà Võ Thị Đ đối với bà Nguyễn Thị Kim S.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 166, 167, 168 ngày 29/3/2007, đối với 03 thửa đất theo các giấy chứng nhận quyên sử dụng đất số 01108.QSDĐ/709. TT/2003, diện tích 10.502m2; số 01124.QSDĐ/709.TT/2003, diện tích 5.000m2; và số 01553. QSDĐ/3559. TT/2004, diện tích 4.770m2, giữa bà Nguyễn Thị Lệ M và Nguyễn Thị Kim S được Ủy ban nhân dân phường P, quận A chứng thực bị vô hiệu một phần (40% giá trị hợp đồng). Ba thửa đất chuyển nhượng tọa lạc tại địa chỉ: khu vực Th, phường P, quận A, thành phố X (nay là đường T, phường P, quận A, thành phố X).
Bà Võ Thị Đ được quyền đăng kí quyền sử dụng đất đối diện tích: 8.039,6m2 trong đó gồm các loại đất: Đất ODT: 157,5m2, CLN: 4.584,6m2, TMD: 3.297,5m2 đường T tính từ cầu Sang Trắng 1 đến nút giao Quốc lộ ZB, (chiều ngang mặt tiền đường T là 24.60m chiều dài một cạnh bên phải từ ngoài nhìn vào là 242.44m, các thông số còn lại theo bản trích đo địa chính số 31 ngày 30/5/2019 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố X). Phần đất còn lại của bà Nguyễn Thị Kim S.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân quận A thu hồi 40% diện tích đất nêu trên đứng tên bà Nguyễn Thị Kim S để cấp lại cho bà Võ Thị Đ (theo biên bản trích đo địa chính số 31 ngày 30/5/2019 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố X).
Trên cơ sở đơn yêu cầu thi hành án của bà Võ Thị Đ, ngày 08/8/2019, Chi cục THADS quận A đã ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 858/QĐ-CCTHADS và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án. Quá trình tổ chức thi hành, ngày 25/11/2019 Chấp hành viên đã ban hành Quyết định cưỡng chế số 03/QĐ-CCTHADS cưỡng chế buộc bà Nguyễn Thị Kim S phải bàn giao cho bà Võ Thị Đ diện tích đất theo bản án tuyên. Đến ngày 08/5/2020 Chấp hành viên đã tổ chức cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho bà Võ Thị Đ và thu phí thi hành án đối với bà Võ Thị Đ.
Ngày 26/5/2020, Chi cục THADS quận A nhận được Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 80/2020/KN-DS ngày 26/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H. Chi cục THADS quận A đã có văn bản báo cáo kết quả thi hành án gửi Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H. Ngày 08/7/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 135/2020/DS-GĐT với nội dung:
“Chấp nhận Kháng nghị số 80/2020/KN-DS ngày 26/5/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H.
Hủy Bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố X, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của Tòa án nhân dân quận A, thành phố X về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lệ M và bị đơn bà Nguyễn Thị Kim S”.
Sau khi có quyết định giám đốc thẩm, bà Nguyễn Thị Kim S có đơn yêu cầu đòi lại tài sản mà Chi cục THADS quận A đã cưỡng chế giao cho bà Võ Thị Đ. Chi cục THADS quận A nhận thấy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên không tuyên giải quyết hậu quả của việc thi hành án nên có các cách tiếp cận để giải quyết đơn đòi lại tài sản bị cưỡng chế của bà Nguyễn Thị Kim S.
Cách tiếp cận thứ nhất, do Bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố X bị hủy nên Chi cục trưởng Chi cục THADS quận A căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự để ban hành Quyết định thu hồi Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 858/QĐ-CCTHADS ngày 08/8/2019, Chấp hành viên ban hành Quyết định thu hồi Quyết định cưỡng chế số 03/QĐ-CCTHADS ngày 25/11/2019. Tiếp theo, Chấp hành viên sẽ tổ chức cưỡng chế buộc bà Võ Thị Đ phải trả lại bà Nguyễn Thị Kim S diện tích đất đã nhận theo Bản án phúc thẩm, đồng thời Chi cục THADS quận A thực hiện thủ tục hoàn lại số tiền phí thi hành án đã thu trước đó cho bà Võ Thị Đ.
Cách tiếp cận thứ hai, do Quyết định giám đốc thẩm nêu trên không xem xét hậu quả của việc thi hành án nên Chi cục THADS quận A không áp dụng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự để đình chỉ việc thi hành án mà Chấp hành viên áp dụng khoản 3 Điều 135 Luật Thi hành án dân sự để tổ chức cho bà Nguyễn Thị Kim S và bà Võ Thị Đ thỏa thuận với nhau về việc trả lại tài sản. Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì cưỡng chế buộc bà Võ Thị Đ phải trả lại quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim S.
Về ý kiến của tác giả trong việc giải quyết đơn đòi lại tài sản của bà Nguyễn Thị Kim S.
Trong vụ việc này, trên cơ sở đơn yêu cầu thi hành án của bà Võ Thị Đ, Chi cục THADS quận A ban hành Quyết định thi hành án 858/QĐ-CCTHADS ngày 08/8/2019 và tổ chức cưỡng chế giao tài sản là quyền sử dụng đất cho bà Võ Thị Đ là hoàn toàn phù hợp với nội dung Bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố X và các quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-ST ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố X bị hủy nên Chi cục THADS quận A phải áp dụng điểm d khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết định đình chỉ việc thi hành án.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 135 Luật Thi hành án dân sự quy định: “
Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa thì việc thi hành được thực hiện theo quyết định giám đốc thẩm và bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa”. Do đó, trong vụ việc này, Chi cục THADS quận A phải tổ chức thi hành án theo Quyết định giám đốc thẩm 135/2020/DS-GĐT ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của Tòa án nhận dân quận A, thành phố X. Tuy nhiên, Quyết định giám đốc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của Tòa án nhân dân quận A đều không có nội dung tuyên buộc bà Võ Thị Đ giao lại tài sản cho bà Nguyễn Thị Kim S nên không có cơ sở để Chi cục THADS quận A tổ chức cưỡng chế buộc bà Võ Thị Đ giao lại tài sản cho bà Nguyễn Thị Kim S.
Để giải quyết yêu cầu đòi lại tài sản của bà Nguyễn Thị Kim S, Chi cục THADS quận A phải có văn bản đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên hoặc hướng dẫn bà Nguyễn Thị Kim S khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
2 Đề xuất sửa quy định pháp luật
Từ vụ việc nêu trên cho thấy quy định tại khoản 3 Điều 135 Luật Thi hành án dân sự có mâu thuẫn với khoản 2 Điều 20, điểm d khoản 1 Điều 50 và khoản 1 Điều 135 Luật Thi hành án dân sự nên cần phải sửa đổi. Do đó, tác giả đề xuất Ban soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Thi hành án dân sự cân nhắc sửa đổi Điều 135 Luật Thi hành án dân sự theo hướng bỏ các quy định tại khoản 3 Điều 135 Luật Thi hành án dân sự và việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án thuộc trách nhiệm của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 344 Bộ luật tố tụng dân sự./.