3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỪA PHÁT LẠI
3.1. Kết quả đạt được
- Về tổ chức hành nghề Thừa phát lại: tính đến ngày 30/9/2024, có
421 Thừa phát lại đang hành nghề và
207[1] Văn phòng Thừa phát lại được thành lập tại
51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
[2], 06 tỉnh, thành phố đã ban hành Đề án thành lập Văn phòng Thừa phát lại theo đúng quy định của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP và 06 tỉnh, thành phố chưa ban hành Đề án thành lập Văn phòng Thừa phát lại.
Đã có 02 Hội Thừa phát lại được thành lập, đi vào hoạt động (Hội Thừa phát lại thành phố Hà Nội và Hội Thừa lại Thành phố Hồ Chí Minh), đã kiện toàn công tác tổ chức, nhân sự của Hội, phát triển hội viên và thực hiện tuyên truyền, thông tin, hỗ trợ hoạt động của Thừa phát lại tại các địa phương
[3].
- Về đào tạo, tập sự hành nghề Thừa phát lại của các học viên sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo, bồi dưỡng nghề: Tính từ khi Nghị định số 08/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (ngày 24/02/2020) đến ngày 31/9/2024, Học viện Tư pháp đã tổ chức 05 khóa đào tạo nghề Thừa phát lại cho hơn 700 học viên, trong đó có hơn 400 học viên đã được công nhận tốt nghiệp; tổ chức 02 khóa bồi dưỡng nghề Thừa phát lại cho 92 học viên, trong đó có 40 học viên đã tốt nghiệp
. Số lượng học viên có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nghề Thừa phát lại có xu hướng tăng, tuy nhiên số lượng tăng không nhiều và chưa có sự ổn định.
- Về tổ chức kỳ thi kiểm tra tập sự hành nghề Thừa phát lại: Từ năm 2020 đến nay, Bộ Tư pháp chưa tổ chức kỳ thi kiểm tra tập sự hành nghề Thừa phát lại. Các Thừa phát lại đều là từ trước năm 2020 đến nay được bổ nhiệm lại.
- Về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm Thừa phát lại: Tính từ khi Nghị định số 08/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 111 Thừa phát lại, miễn nhiệm 21 Thừa phát lại.
Tính đến cuối năm 2024, hoạt động của Thừa phát lại trên cả nước đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng, thể hiện qua những con số cụ thể:
- Hơn 500.000 vi bằng đã được lập, phục vụ nhu cầu ghi nhận các sự kiện, hành vi khách quan trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại, góp phần phòng ngừa tranh chấp và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
- Hàng triệu lượt tống đạt văn bản của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự đã được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và đúng quy định, hỗ trợ tích cực cho hoạt động tư pháp và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc.
- Hàng chục nghìn vụ việc xác minh điều kiện thi hành án đã được tiến hành, giúp cơ quan Thi hành án có cơ sở đánh giá chính xác khả năng thi hành của đương sự, từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo đảm thi hành án đúng pháp luật và hiệu quả.
Những kết quả nêu trên cho thấy nhu cầu sử dụng dịch vụ Thừa phát lại trong xã hội ngày càng lớn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của người dân, doanh nghiệp và các cơ quan tiến hành tố tụng đối với vai trò, chức năng và tính minh bạch, khách quan của Thừa phát lại trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây cũng là minh chứng cho sự phát triển ngày càng chuyên nghiệp và bền vững của chế định Thừa phát lại trong quá trình cải cách tư pháp, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.2. Tác động tích cực của hoạt động Thừa phát lại
Hoạt động của Thừa phát lại trong những năm qua không chỉ ngày càng mở rộng về quy mô mà còn mang lại nhiều tác động tích cực đối với hệ thống tư pháp và xã hội, thể hiện qua các khía cạnh sau:
Giảm tải khối lượng công việc cho Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự: Việc Thừa phát lại thực hiện các nhiệm vụ như tống đạt văn bản, xác minh điều kiện thi hành án hay lập vi bằng đã hỗ trợ đáng kể cho các cơ quan tư pháp. Thông qua việc chia sẻ một phần khối lượng công việc, Thừa phát lại giúp các cơ quan này tập trung hơn vào các nhiệm vụ chuyên môn chính, từ đó nâng cao hiệu quả và chất lượng giải quyết vụ việc, giảm tình trạng quá tải và tồn đọng trong quá trình xét xử và thi hành án.
Tạo điều kiện để người dân tiếp cận dịch vụ pháp lý một cách nhanh chóng và thuận tiện: Với mạng lưới các Văn phòng Thừa phát lại được phân bố rộng khắp và hoạt động linh hoạt, người dân, doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ pháp lý như lập vi bằng, tống đạt giấy tờ, xác minh điều kiện thi hành án mà không cần phải chờ đợi lâu hoặc thực hiện thủ tục phức tạp. Điều này góp phần nâng cao nhận thức pháp luật trong cộng đồng, khuyến khích người dân chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tăng cường tính minh bạch, khách quan và độ tin cậy trong hoạt động tư pháp: Việc lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi một cách khách quan, độc lập và trung thực đã trở thành công cụ hữu hiệu trong việc phòng ngừa và giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, hoạt động tống đạt, xác minh do Thừa phát lại thực hiện đảm bảo đúng quy trình, thời hạn và minh bạch, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật và hoạt động tư pháp.
Góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước thông qua cơ chế xã hội hóa dịch vụ pháp lý: Hoạt động của Thừa phát lại được tổ chức theo mô hình xã hội hóa, nghĩa là không sử dụng ngân sách nhà nước mà hoạt động dựa trên nguồn thu từ cung cấp dịch vụ. Điều này không chỉ giảm gánh nặng tài chính cho nhà nước mà còn thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý trên thị trường. Đồng thời, việc xã hội hóa cũng tạo điều kiện để thu hút nguồn lực từ xã hội tham gia vào hoạt động tư pháp, từng bước xây dựng nền tư pháp hiện đại, hiệu quả và gần gũi với người dân.
Nhìn chung, sự phát triển của chế định Thừa phát lại đã và đang đem lại nhiều lợi ích thiết thực, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp và phục vụ tốt hơn cho nhu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp trong đời sống pháp lý hằng ngày.
3.3. Khó khăn, vướng mắc
Mặc dù hoạt động Thừa phát lại đã đạt được nhiều kết quả tích cực và ngày càng thể hiện rõ vai trò trong hệ thống tư pháp, song thực tiễn triển khai cho thấy vẫn còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế cần được quan tâm, khắc phục để đảm bảo sự phát triển bền vững, đồng bộ và hiệu quả của chế định này:
Thứ nhất, nhận thức xã hội về Thừa phát lại chưa đồng đều: Tại một số địa phương, đặc biệt là các tỉnh mới triển khai mô hình Thừa phát lại, nhận thức của người dân, doanh nghiệp và thậm chí cả một bộ phận cán bộ trong các cơ quan nhà nước về chức năng, vai trò và giá trị của Thừa phát lại vẫn còn hạn chế. Điều này dẫn đến tâm lý e dè trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ Thừa phát lại, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển thị trường dịch vụ pháp lý. Ở nhiều nơi, mô hình Thừa phát lại mới chỉ được triển khai mang tính thí điểm, chưa thực sự lan tỏa và chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xã hội hóa các hoạt động hỗ trợ tư pháp.
Thứ hai, khung pháp lý còn có những khoảng trống, chưa bắt kịp thực tiễn: Một số nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động Thừa phát lại vẫn còn thiếu hoặc chưa đầy đủ, gây khó khăn trong quá trình thực thi. Cụ thể, phạm vi lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi diễn ra trên không gian mạng hiện vẫn chưa được quy định rõ ràng, trong khi nhu cầu lập vi bằng điện tử ngày càng gia tăng, đặc biệt trong các giao dịch số. Bên cạnh đó, chưa có chuẩn hóa về dữ liệu điện tử phục vụ cho lập vi bằng hoặc tống đạt điện tử, gây khó khăn cho việc xác minh và xử lý nghiệp vụ. Việc phối hợp thực hiện tống đạt văn bản giữa các tỉnh, thành phố cũng gặp nhiều vướng mắc do thiếu quy định rõ ràng về quy trình, trách nhiệm và cơ chế phối hợp. Đặc biệt, cơ chế thanh toán dịch vụ tống đạt do Thừa phát lại thực hiện cho cơ quan Thi hành án dân sự còn thiếu minh bạch và chưa được hướng dẫn thống nhất, dẫn đến nhiều lúng túng trong triển khai tại địa phương.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều: Hiện nay, đội ngũ Thừa phát lại và nhân viên nghiệp vụ tại các văn phòng Thừa phát lại có sự chênh lệch đáng kể về trình độ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm. Trong khi một số văn phòng có đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, thì nhiều văn phòng khác lại thiếu nhân sự có chuyên môn sâu, dẫn đến chất lượng cung cấp dịch vụ không ổn định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc cho Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ và nhân viên hỗ trợ còn chưa được thực hiện đồng bộ và thường xuyên. Bên cạnh đó, các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng dịch vụ và năng lực hành nghề còn chưa được chú trọng đúng mức, chưa có cơ chế đánh giá, xếp hạng chất lượng dịch vụ để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp.
Thứ tư, hạ tầng số và việc liên thông, khai thác dữ liệu dùng chung còn hạn chế: Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Thừa phát lại vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Các hệ thống dữ liệu quốc gia quan trọng như Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử... chưa được khai thác đầy đủ để hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt văn bản hay xác thực thông tin lập vi bằng. Việc thiếu liên thông dữ liệu giữa các cơ quan, đơn vị cũng là rào cản lớn đối với việc thực hiện nghiệp vụ một cách chính xác, nhanh chóng và minh bạch.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước còn cần được tăng cường: Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát các văn phòng Thừa phát lại tại một số địa phương còn chưa được thực hiện thường xuyên và toàn diện. Một số sai phạm, vi phạm quy trình nghiệp vụ hoặc vi phạm đạo đức hành nghề chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, làm ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của chế định Thừa phát lại. Đồng thời, công tác hướng dẫn nghiệp vụ, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Thừa phát lại tại các địa phương còn thiếu đồng bộ, khiến hoạt động của các văn phòng thiếu sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng.
Những hạn chế nêu trên cho thấy việc hoàn thiện mô hình Thừa phát lại không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ các cơ quan quản lý nhà nước, mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp và bản thân các tổ chức hành nghề Thừa phát lại. Việc giải quyết những tồn tại này là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng, hiệu quả và vị thế của Thừa phát lại trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện đại.
4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA THỪA PHÁT LẠI TRONG HỖ TRỢ CƠ QUAN TƯ PHÁP
Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của Thừa phát lại trong hệ thống tư pháp và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp cụ thể, toàn diện và có tính chiến lược, bao gồm:
4.1. Hoàn thiện thể chế, pháp lý
Một trong những yêu cầu cấp thiết là tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động của Thừa phát lại. Trong đó, trọng tâm như sau:
Một là, rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, nhằm đảm bảo phù hợp với thực tiễn và yêu cầu chuyển đổi số.
Hai là, ban hành các văn bản hướng dẫn chuyên sâu liên quan đến chuẩn hóa nghiệp vụ tống đạt, chuẩn dữ liệu điện tử trong lập vi bằng, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ.
Ba là, làm rõ phạm vi và giá trị pháp lý của vi bằng trong không gian mạng, bao gồm các tình huống lập vi bằng ghi nhận hành vi, sự kiện trên nền tảng số, mạng xã hội, thương mại điện tử... để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, kịp thời bắt nhịp với sự phát triển của xã hội số.
4.2. Chuẩn hóa nghiệp vụ, nâng cao chất lượng chuyên môn
Nâng cao chất lượng dịch vụ của Thừa phát lại là điều kiện tiên quyết để xây dựng niềm tin đối với xã hội. Qua đó, cần thiết thực hiện một số nội dung sau:
Một là, ban hành quy trình tống đạt liên tỉnh nhằm đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả và tránh chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ giữa các địa phương.
Hai là, xây dựng quy chuẩn về thời gian thực hiện, địa điểm tống đạt, và chứng cứ điện tử, đảm bảo tính hợp pháp, minh bạch và có thể kiểm chứng được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Ba là, phát triển bộ chỉ số đánh giá hiệu quả (KPI) đối với các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu như tống đạt văn bản, lập vi bằng, từ đó làm căn cứ theo dõi, kiểm tra và cải thiện chất lượng dịch vụ.
Bốn là, tăng cường công tác hậu kiểm, giám sát sau thực hiện, đặc biệt trong các trường hợp có dấu hiệu vi phạm quy trình hoặc phản ánh từ người dân, nhằm bảo đảm kỷ cương nghề nghiệp và sự nghiêm túc trong hoạt động hành nghề.
4.3. Hoàn thiện cơ chế tài chính, đảm bảo tính công khai – minh bạch
Một cơ chế tài chính hợp lý, minh bạch là yếu tố quan trọng để đảm bảo tính bền vững của hoạt động Thừa phát lại, do đó, cơ quan quản lý cần:
Hoàn thiện khung đơn giá dịch vụ tống đạt và xác minh theo hướng phù hợp với thị trường nhưng vẫn đảm bảo khả năng tiếp cận của người dân.
Xây dựng phương thức đặt hàng – đấu thầu dịch vụ giữa cơ quan nhà nước và các Văn phòng Thừa phát lại, bảo đảm tính công khai, cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả trong sử dụng ngân sách nhà nước.
Thiết lập cơ chế thanh toán dịch vụ kịp thời, minh bạch, tránh tình trạng chậm trễ trong thanh toán khiến các văn phòng gặp khó khăn về tài chính và ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ.
4.4. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động Thừa phát lại
Đây là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tiết kiệm thời gian, chi phí và tăng tính minh bạch:
Phát triển hệ thống phần mềm quản trị nghiệp vụ dành riêng cho Văn phòng Thừa phát lại, cho phép quản lý đồng bộ hoạt động tống đạt, lập vi bằng, xác minh… theo thời gian thực.
Tích hợp các công nghệ số như ký số, định danh điện tử (VNeID) nhằm xác thực người sử dụng dịch vụ, tăng độ tin cậy và bảo mật thông tin.
Thí điểm áp dụng sổ vi bằng điện tử, tích hợp với Cổng dịch vụ công quốc gia và Cổng dịch vụ công của Bộ Tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân truy cập, tra cứu và sử dụng vi bằng một cách nhanh chóng, an toàn.
4.5. Phát triển nguồn nhân lực, chuẩn hóa đào tạo và hành nghề
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt bảo đảm uy tín và hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại. Vì vậy, cần:
Chuẩn hóa chương trình đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc, đặc biệt đối với Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ và nhân viên hỗ trợ nghiệp vụ.
Tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả tập sự, cấp và gia hạn thẻ hành nghề dựa trên chuẩn năng lực cụ thể, gắn với thực tiễn hành nghề và đạo đức nghề nghiệp.
Tăng cường các lớp đào tạo chuyên đề chuyên sâu về công nghệ số, chứng cứ điện tử, kỹ năng lập vi bằng trên không gian mạng và xử lý dữ liệu số, nhằm bắt kịp xu thế phát triển của xã hội và nhu cầu người sử dụng dịch vụ pháp lý hiện đại.
4.6. Nâng cao hiệu quả truyền thông, phổ biến nhận thức về Thừa phát lại
Công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi nhận thức xã hội và thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ Thừa phát lại:
Triển khai chiến dịch truyền thông đa kênh, trên cả nền tảng truyền thống và kỹ thuật số (truyền hình, báo chí, mạng xã hội...) nhằm giới thiệu rõ vai trò, lợi ích và giá trị pháp lý của vi bằng cũng như các dịch vụ do Thừa phát lại cung cấp.
Xây dựng cơ chế tư vấn, giải đáp pháp luật trực tuyến, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp hiểu đúng – hiểu đủ về quyền lợi và cách thức sử dụng dịch vụ Thừa phát lại một cách thuận tiện, dễ tiếp cận.
Phối hợp với các cơ quan báo chí, hội nghề nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội để đưa thông tin về Thừa phát lại đến các nhóm đối tượng mục tiêu như doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh, cư dân đô thị, người dân ở các khu vực mới triển khai mô hình.
5. KẾT LUẬN
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định rằng Thừa phát lại là một chủ thể quan trọng, đóng vai trò cầu nối giữa người dân với hệ thống tư pháp, góp phần xây dựng một nền tư pháp dân chủ, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả – đúng với định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2030.