Tương trợ Tư pháp trong Thi hành án dân sự: Vướng mắc, bất cập và đề xuất hướng giải quyết

11/12/2019
Quan hệ hợp tác quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của bản thân mỗi quốc gia và được mở rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, pháp luật, kinh tế-xã hội, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng...Trong đó hợp tác về tương trợ tư pháp giữa các quốc gia luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng, trong đó có với việc thực thi và áp dụng trong lĩnh vực dân sự, đặc biệt về trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp (UTTP) gây nhiều khó khăn, vướng mắc đối với các cơ quan Nhà nước có liên quan và đương sự.


Cơ sở pháp lý quy định vấn đề ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự bao gồm Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự (Luật THADS); Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật THADS ( NĐ số 62); Luật Tương trợ Tư pháp năm 2007; Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Tương trợ tư pháp; Thông tư liên tịch số 12/TTLT/BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (Thay thế Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT/BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp).
Theo quy định tại Điều 6 - Luật Tương trợ Tư pháp thì Ủy thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy thác tư pháp chính là một hình thức để thực hiện tương trợ tư pháp trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Vấn đề ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự là một nội dung trong ủy thác tư pháp về dân sự.
1. Thực hiện ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự của Việt Nam
Hiện Điều 50 Nghị định 62 là điều khoản duy nhất điều chỉnh vấn đề thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài thông qua các quy định về tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự. Sau khi Nghị định 62 có hiệu lực (ngày 01/9/2015) đã có 109 yêu cầu thông báo thi hành án của Việt Nam gửi đi nước ngoài (cả những nước có quan hệ điều ước quốc tế với Việt Nam và những nước chưa có quan hệ điều ước) và đã nhận được 49 kết quả trả lời (đạt tỷ lệ gần 45%).
1.1 Thẩm quyền yêu cầu ủy thác
Theo Điều 10 Thông tư liên tịch số 12/TTLT/BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/ 2016 của Bộ Tư Pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (sau đây gọi tắt là TTLT số 12) thì trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Đối với Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện trong quá trình giải quyết việc thi hành án dân sự có phát sinh ủy thác tư pháp ra nước ngoài thì lập hồ sơ theo quy định tại Điều 11 của Luật Tương trợ tư pháp và Điều 11 của TTLT số 12 để gửi tới Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh để thực hiện theo thủ tục chung.
1.2 Quy định về văn bản ủy thác tư pháp và hồ sơ ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự (Điều 11 Luật TTTP)
1.2.1 Văn bản ủy thác tư pháp:
Văn bản ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự dân sự phải có các nội dung sau đây:
- Ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản;
- Tên, địa chỉ cơ quan ủy thác tư pháp;
- Tên, địa chỉ cơ quan được ủy thác tư pháp;
- Họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân; tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến ủy thác tư pháp;
- Nội dung công việc được ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự phải nêu rõ mục đích ủy thác, công việc và các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện ủy thác và thời hạn thực hiện ủy thác.
Hình thức và các nội dung cơ bản của văn bản ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự thực hiện theo Mẫu số 02A ban hành kèm theo TTLT số 12 quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
1.2.2 Về hồ sơ ủy thác tư pháp:
Theo quy định tại Điều 11, Điều 12 Luật Tương trợ tư pháp, Điều 11 TTLT số 12 thì hồ sơ ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự cũng tương tự như hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự như sau:
- Văn bản yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự được lập theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo TTLT số 12;
- Văn bản ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự được lập theo Mẫu số 02A ban hành kèm theo TTLT số 12;
- Trường hợp ủy thác tư pháp tống đạt giấy tờ được thực hiện theo kênh chính của Công ước tống đạt, văn bản ủy thác tư pháp được lập theo Mẫu số 02B ban hành kèm theo TTLT số 12;
- Giấy tờ khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu ủy thác (nếu có);
TTLT số 12 thêm cụm từ “nếu có” để tạo quy định mở mà không bắt buộc phải có giấy tờ này nếu cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu ủy thác không yêu cầu.
Ngoài ra, Điểm d Khoản 1 Điều 11 TTLT số 12 đã bổ sung thêm quy định về việc có các giấy tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc thực hiện ủy thác tư pháp theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam.
Hồ sơ ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự được Cục THADS lập theo cách thức sau đây:
Các văn bản yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp và giấy tờ khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu ủy thác phải do người có thẩm quyền giải quyết vụ việc có yêu cầu ủy thác tư pháp ký, trừ trường hợp văn bản ủy thác tư pháp tống đạt giấy tờ được thực hiện theo kênh chính của Công ước tống đạt, văn bản ủy thác tư pháp được lập theo Mẫu số 02B ban hành kèm theo TTLT số 12 được thực hiện theo hướng dẫn;
Các văn bản yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp phải là bản chính và các văn bản, giấy tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc thực hiện ủy thác tư pháp là bản chính hoặc bản sao. Bản sao và bản dịch của các văn bản, giấy tờ  phải được chứng thực hợp lệ theo quy định của pháp luật. Đối với các giấy tờ không phải của cơ quan có thẩm quyền lập hoặc xác nhận thì cơ quan có thẩm quyền, nơi lập hồ sơ ủy thác tư pháp phải đối chiếu bản sao các giấy tờ này với bản gốc và đóng dấu xác nhận;   
Trường hợp vụ việc cần ủy thác có liên quan đến một hoặc nhiều đương sự có địa chỉ khác nhau thì phải lập riêng hồ sơ ủy thác theo từng địa chỉ của đương sự;
Trường hợp vụ việc cần ủy thác tư pháp có phạm vi khác nhau thì phải lập riêng hồ sơ ủy thác tư pháp theo từng phạm vi ủy thác, trừ trường hợp hồ sơ ủy thác tống đạt giấy tờ có yêu cầu đương sự cung cấp lời khai, giấy tờ, tài liệu.
Hồ sơ ủy thác tư pháp hợp lệ khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 12 TTLT số 12 như sau:
- Hồ sơ ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự đã được lập theo đúng quy định.
- Có biên lai thu phí, lệ phí và giấy tờ xác nhận đã thanh toán chi phí thực tế cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 hoặc biên lai thu tiền tạm ứng chi phí thực tế tại điểm b khoản 2 Điều 7 của Thông tư liên tịch số 12.
Quá trình lập hồ sơ ủy thác tư pháp cần lưu ý về chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài do nước yêu cầu chi trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Cá nhân, tổ chức Việt Nam yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp ra nước ngoài thì phải chịu chi phí theo quy định của Việt Nam.
Điều 3 Nghị định số 92 quy định đối tượng phải nộp chi phí uỷ thác tư pháp về dân sự là cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự mà làm phát sinh yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự ra nước ngoài và cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự cho Việt Nam; cơ quan thu chi phí ủy thác tư pháp về dân sự là cơ quan tiếp nhận hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự ra nước ngoài và cơ quan tiếp nhận hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài vào Việt Nam; Bộ Tài chính quy định cụ thể về mức phí; chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng các chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự tại Thông tư 18/2014/TT-BTC ngày 11/02/2014 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí ủy thác tư pháp về dân sự.
Theo quy định tại Điều 7 TTLT số 12, các chi phí thực tế phát sinh trong nước do người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam thanh toán trực tiếp cho người cung cấp dịch vụ.
Đối với chi phí thực tế do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thu chia làm 2 trường hợp:
(i) Trường hợp chi phí thực tế đã xác định được theo quy định của phía nước ngoài tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam lập hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam thông báo người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam thanh toán chi phí này với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc gia liên quan.
(ii) Trường hợp chi phí thực tế chưa xác định được tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam lập hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam thông báo cho người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam phải nộp tạm ứng 3 triệu đồng tại cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi cơ quan có thẩm quyền uỷ thác tư pháp về dân sự của Việt Nam có trụ sở. Số tiền tạm ứng này được thanh toán cho chi phí thực tế theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và các chi phí phục vụ việc chuyển tiền ra nước ngoài do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện.
Hồ sơ ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự được lập thành ba bộ theo quy định của Luật Tương trợ Tư pháp và phù hợp với pháp luật của nước được ủy thác.
1.2.3 Về ngôn ngữ được sử dụng để lập hồ sơ ủy thác tư pháp:
Trong trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài đã có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì ngôn ngữ trong hồ sơ ủy thác tư pháp là ngôn ngữ được quy định trong điều ước quốc tế; trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận. Cục THADS cấp tỉnh lập hồ sơ yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp phải có trách nhiệm dịch hồ sơ.
Trường hợp Cục THADS cấp tỉnh lập hồ sơ không xác định được ngôn ngữ chính thức hoặc ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận, Cục THADS cấp tỉnh lập hồ sơ yêu cầu ủy thác tư pháp gửi văn bản đề nghị Bộ Ngoại giao xác định.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản của Cục THADS cấp tỉnh lập hồ sơ ủy thác, Bộ Ngoại giao phải có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thông tin về ngôn ngữ tương trợ tư pháp.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được trả lời của phía nước ngoài, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm thông báo cho Cục THADS cấp tỉnh lập hồ sơ ủy thác tư pháp của Việt Nam.
2. Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự
2.1. Về thể chế:
Thứ nhất, quy định của pháp luật tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự còn rất hạn chế
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ở thời điểm Luật Tương trợ tư pháp được ban hành và có hiệu lực (từ 01/7/2008) cũng là thời điểm dự án Luật thi hành án dân sự năm 2008 đang được xây dựng nhằm khắc phục những bất cập của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, trong đó có đề cập đến những khoảng trống của Pháp lệnh này về vấn đề tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự. Do đó, trong quá trình xây dựng Luật Thi hành án dân sự 2008, vấn đề này cũng đã được quan tâm đặt ra, theo nhiều phương án khác nhau, trong đó có hướng hoặc xây dựng một mục trong Chương về “Thi hành án trong một số trường hợp cụ thể” hoặc xây dựng thành một Chương độc lập về thi hành án có yếu tố nước ngoài để thuận lợi cho quá trình áp dụng. Tuy nhiên, cuối cùng với việc đã có Luật tương trợ tư pháp mới được ban hành nên dự án Luật đã dừng lại ở việc bổ sung một điều luật để quy định về vấn đề này (Điều 181) và chỉ dừng lại ở việc viện dẫn thực hiện tương trợ tư pháp theo Luật tương trợ tư pháp [1] mà không có nội dung cụ thể cho lĩnh vực thi hành án dân sự.
Đến năm 2014, Luật sửa đổi bổ sung Luật THADS năm 2008 tiếp tục đặt ra vấn đề này nhưng trong khi Luật Tương trợ tư pháp chưa sửa đổi, bổ sung thì quy định về ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự cũng chưa có bước sửa đổi, bổ sung đột phá nào và vẫn dừng lại ở duy nhất 01 điều luật (Điều 181) mang tính viện dẫn. Hiện Điều 50 Nghị định 62/2015/NĐ-CP là điều khoản duy nhất điều chỉnh vấn đề thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài thông qua các quy định về tương trợ tư pháp (TTTP) trong thi hành án.
Mặc dù, pháp luật hiện hành (TTLT số 12) đã quy định về thẩm quyền ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự nhưng thủ tục còn áp dụng chung cho cơ quan có thẩm quyền có nhu cầu ủy thác tư pháp. do đó, cần thiết phải có quy định cụ thể để áp dụng cho việc ủy thác tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự. 
Thứ hai, phạm vi tương trợ tư pháp về thi hành án dân sự còn hẹp, chỉ giới hạn ở việc tống đạt văn bản, giấy tờ về thi hành án
Theo quy định tại Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp, phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự chỉ gồm:
(i) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự;
(ii) triệu tập người làm chứng, người giám định;
(iii) thu thập, cung cấp chứng cứ
(iv) các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự.
Trong khi đó, đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, việc tương trợ tư pháp của Việt Nam ra nước ngoài rất cần thiết để thực hiện các việc như: Tống đạt văn bản, giấy tờ về thi hành án; Xác minh điều kiện thi hành án (địa chỉ, nơi làm việc, thu nhập.. ) của người phải thi hành án; Tạm giữ, phong toả, kê biên tài sản để thi hành án; Công nhận và cho thi hành tại nước ngoài bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh của Việt Nam đối với công dân, tổ chức nước ngoài …  Tuy nhiên, trên thực tế cơ quan THADS chỉ có quyền và phía nước ngoài cũng chỉ chấp nhận việc ủy thác tư pháp liên quan đến việc tống đạt văn bản, giấy tờ về thi hành án.
Dù có thông tin về tài sản của người thi hành án ở nước ngoài thì cũng không thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thi hành án cho Việt Nam vì để được thi hành bản án của tòa án Việt Nam phải được công nhận tại nước đó. Đối với các vụ việc thi hành án dân sự theo yêu cầu thì người được thi hành phải tự làm thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Việt Nam tại nước ngoài và sau đó tự tiến hành các thủ tục thi hành tại phía nước ngoài. Tương tự như vậy đối với các loại vụ việc thi hành án do thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định chủ động nếu là phần thi hành án phí dân sự cho Nhà nước trong các vụ án dân sự thì cơ quan thi hành án cũng phải tiến hành thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án Việt Nam tại nước ngoài, hiện Luật thi hành án dân sự chưa quy định, trình tự, thủ tục thực hiện; truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính do phạm tội mà có thì thực hiện theo kênh tương trợ tư pháp hình sự; thi hành hình phạt tiền, án phí hình sự thì phải thực hiện công nhận và cho thi hành bản án hình sự của Việt Nam ở nước ngoài nhưng hiện quy định pháp luật trong nước chưa có quy định và Việt Nam cũng chưa ký, tham gia điều ước quốc tế nào điều chỉnh vấn đề này.
Thứ ba, chưa có cơ sở để xác định trường hợp cơ quan THADS cần thực hiện ủy thác tư pháp?
Theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật THAHS năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành bản án, quyết định của tòa án mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ỦY THÁC TƯ PHÁP về thi hành án. Điều 181 Luật THADS cũng chỉ quy định viện dẫn sang quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp. Điều 50 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP chỉ quy định về thẩm quyền, thời hạn thực hiện ủy thác tư pháp.  Điều 13 Luật Tương trợ tư pháp quy định: Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau đây: a) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu;…
Như vậy, chưa có một quy định xác định trường hợp cơ quan THADS cần thực hiện việc ủy thác tư pháp? Và căn cứ để xác định vụ việc “có yếu tố nước ngoài”, “đương sự ở nước ngoài”?
Điều 663 Bộ luật dân sự 2015 quy định: 2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 chỉ có quy định về vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Pháp luật về thi hành án dân sự không có khái niệm “việc thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài” nhưng lại bổ sung thêm khái niệm “đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp”. Vậy, khái niệm “ở nước ngoài” này được hiểu như thế nào? “Ở” là thường trú, tạm trú hay bao gồm cả những trường hợp đi du lịch, đi công tác tại thời điểm thi hành án?
Hơn nữa, không phải tất cả những trường hợp “có yếu tố nước ngoài” theo quy định của Bộ luật Dân sự đều cần phải thực hiện việc ủy thác tư pháp. Vì có trường hợp người nước ngoài là chủ một doanh nghiệp tại Việt Nam phải thi hành án, người đó vẫn tiếp tục cư trú và làm việc tại Việt Nam nên không cần phải thực hiện việc ủy thác tư pháp để tống đạt văn bản, giấy tờ về thi hành án. Có trường hợp các đương sự đều là người Việt Nam, phát sinh tranh chấp và được giải quyết bởi Tòa án Việt Nam, nhưng thời điểm thi hành án, người đó lại đi học hoặc đi lao động tại nước ngoài hoặc trường hợp người nước ngoài đã về nước không còn cư trú tại Việt Nam nhưng trước đó đương sự có đăng ký địa chỉ thường trú tại Việt Nam.  
 Do vậy, thực tiễn tổ chức thi hành đối với một số vụ việc như Vụ Bùi Thị Huy Lý (Cần Thơ), vụ Nguyễn Tùng Lâm (Hà Nội)…., cơ quan thi hành án đã phối hợp với cơ quan Công an để xác định thời điểm xuất cảnh và nơi đến của người phải thi hành án, để có cơ sở ủy thác tư pháp. Tuy nhiên, không có kết quả, dẫn đến vụ việc thi hành án kéo dài. 
2.2. Về thực tiễn
Thứ nhất, về cơ bản, các cơ quan thi hành án dân sự khi lập hồ sơ ủy thác tư pháp đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật chung về tương trợ tư pháp. Khi có vướng mắc đã kịp thời liên hệ đơn vị chuyên môn để được hướng dẫn. Tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp thực hiện không đúng hoặc còn có lúng túng, vướng mắc trong thực hiện như: chưa nắm vững quy trình ủy thác tư pháp; chưa thực hiện đúng yêu cầu về số lượng và bản chính hoặc bản sao của hồ sơ, việc lập hồ sơ đối với nhiều người; việc xác định ngôn ngữ, tính xác thực của bản dịch, chi phí dịch, cơ quan chuyên môn dịch, mẫu văn bản dịch để thống nhất áp dụng;biểu mẫu ủy thác; phí, chi phí ủy thác tư pháp; thủ tục lập lại hồ sơ ủy thác tư pháp lần hai; xác định không đúng cơ quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp;..
Thứ hai, vướng mắc thực tiễn trong TTTP thi hành án dân sự nói riêng và TTTP về dân sự nói chung là thời gian thực hiện yêu cầu của phía nước ngoài kéo dài, nhiều kết quả không đáp ứng được yêu cầu giải quyết vụ việc (như việc phía nước ngoài không thực hiện được do địa chỉ không đúng, không có đương sự tại địa chỉ được yêu cầu …) vẫn còn nhiều trường hợp không nhận được phản hồi, dẫn đến việc giải quyết các vụ việc thi hành án gặp khó khăn, ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước và các đương sự. Theo quy định hiện hành, mỗi lần ủy thác tư pháp cần phải thực hiện ít nhất 02 lần (lần đầu là 6 tháng, lần sau là 03 tháng). Như vậy, cần 9 tháng để thực hiện ủy thác tư pháp để tống đạt 01 văn bản cho đương sự (lần đầu). Từ lần thứ hai trở đi thì thời hạn là 4 tháng (lần đầu là 3 tháng, lần sau là 01 tháng) Trong khi đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan THADS phải tống đạt khoảng trên dưới 20 văn bản cho đương sự (quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế, thông báo cưỡng chế, thông báo kết quả thẩm định giá, thông báo lựa chọn tổ chức bán đấu giá…). Như vậy, có thể mất: 9 + 4x19 văn bản = 85 tháng (7 năm) chỉ để tống đạt các văn bản, giấy tờ cho đương sự trong trường hợp cần phải ủy thác tư pháp. Mặt khác, liên quan đến chi phí trong ủy thác tư pháp (UTTP) về dân sự. Hiện chưa có văn bản nào quy định về mức thu chi phí UTTP trong quá trình giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài cần TTTP nên trong quá trình thực hiện còn lúng túng. Về vấn đề nguyên tắc có đi có lại trong việc thực hiện UTTP, đối với các trường hợp UTTP đến các nước mà Việt Nam đã ký Hiệp định TTTP thì phần lớn đều có kết quả trả lời nhưng đối với những nước mà Việt Nam chưa ký Hiệp định TTTP thì hầu hết không có kết quả, do đó những năm qua, cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc UTTP  rất nhiều nhưng kết quả thu về còn hạn chế. Nhiều hồ sơ gửi đi hàng năm, hàng tháng không có hồi âm. Điều đó cho thấy thời gian thực hiện UTTP quá lâu. Chúng ta cần phải làm sao để trình tự, thủ tục phải nhanh gọn, bỏ bớt trung gian. 
Cụ thể như nên cho cơ quan có thẩm quyền tống đạt trực tiếp cho công dân ở nước ngoài, nếu không trái với pháp luật sở tại hoặc thông qua cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài mà không chuyển hồ sơ qua cơ quan trung gian là Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao. Nói chung, phải làm sao để dễ thực hiện, tránh phát sinh, để việc thực hiện UTTP khi áp dụng vào cuộc sống. 
Thứ ba, liên quan đến việc thi hành các đối tượng có yếu tố nước ngoài có một số vướng mắc khác, ví dụ: trường hợp họ đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng theo quy định chưa thi hành xong nghĩa vụ dân sự thì không được xuất cảnh về nước, nhưng ở lại thì họ cũng ít có khả năng tìm việc làm, có thu nhập tại Việt Nam để thi hành nghĩa vụ dân sự nhưng cũng không có cơ chế thay thế, quy đổi nghĩa vụ dân sự (hình phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường...) thành hình phạt tù nếu phạm nhân không có khả năng thi hành nghĩa vụ dân sự để đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật trong khi pháp luật của một số nước trên thế giới có quy định; có trường hợp đã về nước nhưng nghĩa vụ thi hành án cho ngân sách chưa xong nên theo quy định lại phải tiến hành ủy thác tư pháp để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nhưng việc ủy thác không có kết quả; họ có quyền được nhận lại giấy tờ, tài sản theo bản án, quyết định đã tuyên nhưng không xác minh được địa chỉ của họ, không chuyển qua đường bưu điện được.
Thứ tư, khó khăn trong công tác phối hợp giữa các ban, ngành có liên quan, thực tiễn tổ chức thi hành đối với một số vụ việc như Vụ Bùi Thị Huy Lý (Cần Thơ), vụ Nguyễn Tùng Lâm (Hà Nội)…., cơ quan thi hành án đã phối hợp với cơ quan Công an để xác định thời điểm xuất cảnh và nơi đến của người phải thi hành án, để có cơ sở ủy thác tư pháp. Tuy nhiên, đến nay không xác định được thời điểm xuất cảnh và nơi đến của người phải thi hành án, dẫn đến vụ việc thi hành án kéo dài. 
3. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định về UTTP trong thi hành án dân sự
3.1.  Tăng cường xây dựng và hoàn thiện thể chế trong ủy thác tư pháp về thi hành án dân sự
+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự, đặc biệt là bổ sung đầy đủ các quy định về căn cứ thực hiện ủy thác tư pháp; trình tự thủ tục, chi phí và các vấn đề khác có liên quan. Đồng thời, giảm bớt thời gian thực hiện ủy thác tư pháp để rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án.
+ Đảm bảo nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước; tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy thác tư pháp ra nước ngoài thực hiện các việc liên quan đến xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án. Đồng thời, tạo cơ chế theo dõi, đánh giá, tổng kết toàn diện và thường xuyên đối với công tác thực hiện tương trợ tư pháp từ nước ngoài tại Việt Nam.
+ Cần bổ sung quy định của Luật Tương trợ tư pháp về việc công bố, thời hạn, cách thức công bố danh sách các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước, ngôn ngữ các nước sử dụng: điều này để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền ủy thác tư pháp trong việc xác định điều ước quốc tế có liên quan và ngôn ngữ dịch văn bản ủy thác tư pháp. Việc công bố cần thực hiện bằng nhiều hình thức, trong đó nên có công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
3.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương khi thực hiện ủy thác tư pháp
 Để đảm bảo hồ sơ ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự không bị trả lại, nhận được kết quả phục vụ công tác tổ chức thi hành án dân sự, đề nghị các cơ quan THADS khi thực hiện ủy thác tư pháp cần nâng cao trách nhiệm trong lĩnh vực này, cụ thể:
- Trước khi gửi hồ sơ ủy thác tư pháp, cơ quan yêu cầu ủy thác tư pháp cần xác minh địa chỉ chính xác của đương sự, đặc biệt là không sử dụng phiên âm tiếng Việt để ghi địa chỉ của đương sự vì hồ sơ như vậy chắc chắn sẽ bị phía nước ngoài trả lại. Kiểm tra bản dịch kèm theo hồ sơ phải đúng với ngôn ngữ của nước được yêu cầu, thời hạn tống đạt phải phù hợp;
- Cần thực hiện đúng, đầy đủ thủ tục ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự (TTLT số 12, Nghị định 62), kịp thời phản ánh các vướng mắc trong thực tiễn thực hiện đến các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương để xử lý, hoàn thiện pháp luật.
 

[1] Điều 181. Tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án quy định: 1. Việc yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án, việc tiếp nhận và xử lý uỷ thác tư pháp về thi hành án của nước ngoài trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp. 2. Cơ quan thi hành án dân sự có yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án phải lập hồ sơ uỷ thác tư pháp theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp”.