Hoàn thiện quy định về xử lý tài sản khi không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành

05/11/2019
Bán đấu giá tài sản kê biên là một trong những giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xử lý tài sản thi hành án. Luật Đấu giá tài sản năm 2016; Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014( Luật THADS) đã có quy định khá cụ thể về việc bán đấu giá không thành và cách thức xử lý tài sản khi không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành. Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng, các quy định liên quan đến vấn đề này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.


Thứ nhất, về khái niệm “bán đấu giá không thành”
Hiện nay vẫn đang có sự không thống nhất giữa Luật THADS và Luật đấu giá tài sản năm 2016 về khái niệm này. Cụ thể: trong Luật THADS sử dụng khái niệm “tài sản không có người tham gia đấu giá” và khái niệm “bán đấu giá không thành”. Tuy nhiên, trong Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì chỉ sử dụng khái niệm “đấu giá không thành” để chỉ tất cả các trường hợp mà việc tổ chức bán đấu giá không mang lại kết quả và phải thực hiện lại từ đầu.
Theo Điều 52 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, các trường hợp đấu giá không thành bao gồm: Đã hết thời hạn đăng ký mà không có người đăng ký tham gia đấu giá; Tại cuộc đấu giá không có người trả giá hoặc không có người chấp nhận giá; Giá trả cao nhất mà vẫn thấp hơn giá khởi điểm trong trường hợp không công khai giá khởi điểm và cuộc đấu giá được thực hiện theo phương thức trả giá lên; Người trúng đấu giá từ chối ký biên bản đấu giá; Người đã trả giá rút lại giá đã trả, người đã chấp nhận giá rút lại giá đã chấp nhận mà không có người trả giá tiếp; Trường hợp từ chối kết quả trúng đấu giá theo quy định tại Điều 51 của Luật đấu giá tài sản; Đã hết thời hạn đăng ký mà chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá trong trường hợp đấu giá tài sản quy định tại Điều 59 của Luật đấu giá tài sản. Đa số quan điểm cho rằng, để xem xét, phân loại và xử lý các trường hợp tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành thì nên sử dụng khái niệm “đấu giá không thành” theo Luật đấu giá tài sản năm 2016 sẽ phù hợp hơn[1]. Do đó, cần sửa đổi quy định về khái niệm “tài sản không có người tham gia đấu giá” “ bán đấu giá không thành” trong Luật THADS đảm bảo sự thống nhất giữa Luật THADS và Luật Đấu giá tài sản.
Thứ hai: Việc thỏa thuận về mức giảm giá tài sản
Theo quy định tại Điều 104 Luật THADS, đối với tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nếu không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành (thuộc một trong các trường hợp đấu giá không thành của khoản 1 Điều 52 Luật đấu giá tài sản năm 2016) thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu đương sự không thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được về mức giảm giá thì chấp hành viên quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá.
Như vậy, đối với tài sản lần đầu đưa ra bán đấu giá nếu đấu giá không thành thì chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản. Vậy từ lần đấu giá thứ hai trở đi nếu vẫn đấu giá không thành thì chấp hành viên có phải thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản nữa không? hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Trong thực tế hầu hết các lần giảm giá tài sản, để đảm bảo tính chặt chẽ của hồ sơ, thì chấp hành viên vẫn tiếp tục thông báo và yêu cầu các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì khi đó chấp hành viên mới quyết định việc giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Tuy nhiên đây cũng là thủ tục phát sinh làm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án, do đó đề nghị Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định rõ ràng về quyền thỏa thuận mức giảm giá tài sản của đương sự chỉ được thực hiện tại lần bán đấu giá lần đầu, đối với các lần sau chấp hành viên có quyền chủ động giảm giá theo quy định của pháp luật. Quy định này sẽ góp phần phát huy tính chủ động của chấp hành viên, giảm bớt thủ tục thi hành án và rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ.
Thứ ba: Về chủ thể được nhận tài sản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật THADS, từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Đây là một quy định rất tiến bộ, đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vẫn cần có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này. Theo quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành thì cơ quan THADS thực hiện kê biên xử lý quyền sử dụng đất[2] (trong đó có đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ…) để thi hành án, người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Theo quy định của Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 về các trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất thì người được thi hành án là Tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa; Hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó. Dẫn đến có thể phát sinh vướng mắc trong việc đăng ký quyền sử dụng đất mà người được thi hành án (Là tổ chức tín dụng, ngân hàng hoặc hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp) nhận để trừ vào số tiền được thi hành án[3]. Do đó cần có hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp đặc thù liên quan đến quy định này.
Thứ tư: về thời điểm người được thi hành án có quyền nhận tài sản
Theo quy định của Điều 104 Luật THADS, từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án mới có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Thực tiễn cho thấy quy định như trên vẫn làm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án( vì tối thiểu là phải sau 3 lần bán đấu giá mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì mới đáp ứng đủ điều kiện này)[4]. Do đó nên quy định ngay từ khi có kết quả thẩm định giá, nếu người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì cần công nhận quyền nhận tài sản của họ, như vậy sẽ rút ngắn được thời gian tổ chức thi hành án[5].
Thứ năm: về mốc giảm giá bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế
Theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Luật THADS, trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Thực tiễn cho thấy mức giảm giá: “bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế” vẫn là quá dài và không hiệu quả, nhất là đối với những tài sản có giá trị lớn. Trên thực tế có những vụ việc mà cơ quan THADS đã bán đấu giá, hạ giá hàng chục lần mà vẫn không có người đăng ký mua, người được thi hành án cũng không nhận tài sản để trừ vào tiền được thi hành án… Do đó, đa số quan điểm cho rằng việc bán đấu giá tài sản thi hành án cần khống chế về số lần bán đấu giá, hạ giá tài sản hoặc xác định một mốc giá trị tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án sao cho phù hợp để có thể nhanh chóng giải quyết dứt điểm vụ việc.
Thứ sáu: về thủ tục tác nghiệp khi giao lại tài sản cho người phải thi hành án
Theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Luật THADS, trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Người phải thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án.
Đối với trường hợp giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng thì hiện nay vẫn chưa có quy định việc giao lại này được thực hiện bằng quyết định hay bằng biên bản. Đồng thời, quyết định kê biên, xử lý tài sản này có được thu hồi hay không, và nếu người phải thi hành án không còn tài sản khác để thi hành án thì có phân loại hồ sơ là chưa có điều kiện thi hành hay không? Có ý kiến cho rằng nên áp dụng tương tự khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC để ra quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật THADS[6]. Đồng thời áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, ngăn chặn chuyển dịch đối với tài sản này. Nếu người phải thi hành án không có tài sản nào khác để thi hành án thì nên phân loại hồ sơ vào diện chưa có điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 44 a Luật THADS[7].
Xử lý tài sản khi không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết việc thi hành án. Rút ngắn các thủ tục thi hành án trong giai đoạn này có thể góp phần rút ngắn đáng kể quá trình giải quyết hồ sơ thi hành án trong thực tế và nâng cao hiệu quả thi hành án đối với những vụ việc này, do đó việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan là rất cần thiết.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
 

[1] Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Quân Chính, Nguyễn Văn Nghĩa; Bình luận Luật Thi hành án Dân sự, NXB. Tư pháp, 2019, trang 497
[2] Điều 110 Luật THADS; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013
[3] Tổng cục THADS, tài liệu hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực THADS giữa Việt Nam và Đại sứ quán Pháp ngày 07.7.2017, trang 27
[4] Khoản 1 Điều 104 Luật THADS
[5] Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Quân Chính, Nguyễn Văn Nghĩa; Bình luận Luật Thi hành án Dân sự, NXB. Tư pháp, 2019, trang 498
[6] Khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC quy định: Trường hợp kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự mà giá của tài sản sau khi giảm giá không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án thì người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tạiđiểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự. Đồng thời, có văn bản yêu cầu người nhận cầm cố, nhận thế chấp thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.
[7] Xem thêm sách Bình luận Luật THADS, trang 498, tlđd