Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

25/10/2021
Không ngừng đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, tổ chức mộ máy các cơ quan nhà nước riêng là chủ trương đúng đắn, xuyên suốt đã được đề ra trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và trong quy định của Hiến pháp. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Đại hội XIII) đã nhấn mạnh đến yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với nhiều điểm mới so với các kỳ Đại hội trước. Bài viết dưới đây sẽ đề cập đến các yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng[1].
 
[1] TS. Nguyễn Văn Nghĩa, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.


Định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà Đại hội XIII đặt ra nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước. Một trong các mục tiêu tổng quát, đó là: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các mục tiêu cụ thể, đó là: (i) Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; (ii) Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; (iii) Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.[1]
Để góp phần đạt được các mục tiêu nêu trên, Đại hội XIII đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian tới, đó là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.[2] Chỉ riêng trong Nghị quyết này, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được đề cập 5 lần ở các góc độ khác nhau,[3] hoặc trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, thuật ngữ “pháp quyền” hoặc “nhà nước pháp quyền” cũng được đề cập đến 15 lần, điều này cho thấy, sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.
Từ đó, Đại hội XIII xác định rõ vị trí của nhiệm vụ, nội dung và biện pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện tư duy mới với những bước phát triển mới về chất so với các kỳ đại hội trước, đó là:[4] “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững[5].
Đại hội XIII đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện nhiệm kỳ Đại hội XII trên tất cả các lĩnh vực, các mặt hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó Đại hội đã dành thời lượng đáng kể đề cập đến các yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, như: tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; tính “thượng tôn pháp luật” trong nhà nước pháp quyền; hoàn thiện các thiết chế của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; vai trò của thể chế trong nhà nước pháp quyền; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu của công tác cán bộ và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong nhà nước pháp quyền; cam kết thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Dưới đây là các yêu cầu cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Một là, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội,[6] vai trò lãnh đạo của Đảng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.[7] Đại hội XIII đã xác định nhiệm vụ “Xây dựng Đảng là then chốt[8], theo đó phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới như: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.[9] Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, đó là “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.[10] Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 và cũng là nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong thời gian tới, đó là phải tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.[11]
Hai là, Đại hội XIII khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.[12] Trên cơ sở đánh giá chung về 10 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”.[13]
Để làm rõ bản chất của Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định việc ban hành luật pháp phải “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo[14]; quy trình làm luật của Quốc hội phải “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân[15]; phải tập trung “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân[16]; xây dựng nền tư pháp “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ: công lý, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân[17]; “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”;[18]tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.[19]
Ba là, một trong những điểm nổi bật trong yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII là sự nhất quán tư tưởng “thượng tôn pháp luật”. Một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII đó là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật[20]. Đây là tư tưởng chỉ đạo nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong việc chấp hành, tuân thủ pháp luật đã được tổng kết từ thực tiễn thực hiện Nghị quyết Đại hội XII như: “Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe[21]. Chính tinh thần “thượng tôn pháp luật” được đề cao cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện, thống nhất sẽ là động lực mạnh mẽ để xây dựng xã hội lành mạnh, kỷ cương và mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mới được hiện thực hóa. Tinh thần “thượng tôn pháp luật” được Văn kiện Đại hội XIII thể hiện ở nhiều nội dung, ví dụ trong định hướng phát triển đất nước (định hướng thứ 12), so với Đại hội XII thì Đại hội XIII đã bổ sung thêm một mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt, đó là mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội[22]. Ngoài ra, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng 02 lần đề cập đến thuật ngữ “nguyên tắc pháp quyền”[23] trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước và trong xây dựng nền hành chính nhà nước.
Nguyên tắc pháp quyền là tinh thần thượng tôn pháp luật của Nhà nước, cơ quan nhà nước, các nhân viên nhà nước, của mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội; là một trong những tư tưởng chủ đạo trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền, trong quản lý và phát triển xã hội. Nguyên tắc pháp quyền được thể hiện ở các phương diện như: (i) trên phương diện pháp luật, nguyên tắc pháp quyền là cơ sở để xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, dân chủ, tiến bộ, trong đó Hiến pháp có vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật; (ii) trên phương diện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thì nguyên tắc pháp quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản, tư tưởng chủ đạo trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền; (iii) trong mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, với mọi tổ chức và cá nhân thì nguyên tắc pháp quyền còn là biểu hiệu sự cam kết của Nhà nước với họ trong việc Nhà nước phải làm đúng, làm đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thuật ngữ “nguyên tắc pháp quyền” lần đầu được đề cập trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đến năm 2016, Đại hội XII của Đảng xác định: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền”[24]. Trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay, thuật ngữ “nguyên tắc pháp quyền” chưa được ghi nhận chính thức, song tư tưởng và nội dung của nguyên tắc này ít nhiều đã được thể hiện ở các mức độ khác nhau trong các bản Hiến pháp và trong cả hệ thống pháp luật.[25]
So với Văn kiện Đại hội XII thì Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục kế thừa và hoàn thiện “nguyên tắc pháp quyền”, tạo cơ sở chính trị quan trọng để nguyên tắc này tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và trong các đạo luật quan trọng của Nhà nước trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.
Bốn là, yêu cầu xây dựng các thiết chế của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII như sau: “Hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước”.[26] “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”.[27]
Tổng kết, đánh giá nhiệm kỳ Đại hội XII về tổ chức bộ máy nhà nước, Đại hội XIII khẳng định: “Nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa đều, chưa thật đồng bộ”.[28] Do đó, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, Đại hội XIII đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp lớn, trong đó đối với đổi mới tổ chức bộ máy, Đại hội XIII yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN”.[29] Yêu cầu nhiệm vụ này đã được cụ thể hóa bằng các chủ trương, định hướng đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước, cụ thể:
Đối với cơ quan lập pháp, Đại hội XIII nhấn mạnh cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng: tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền trong tổ chức và hoạt động, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao; bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Điểm mới trong tổ chức Quốc hội là: “tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp[30]. Điều này sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp hơn, nhất là trong thực hiện quy trình lập pháp và giám sát việc thực hiện pháp luật. Đối với thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội, Đại hội XIII xác định việc tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, “xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế”[31].
Đối với cơ quan hành pháp, Đại hội XIII chủ trương: Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả.[32]
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030,[33] Đại hội XIII cũng khẳng định “Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số”.
Đối với cơ quan tư pháp, Đại hội XIII chủ trương: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; coi đây là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. So với Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Văn kiện đã có sự phát triển mới, nhất là nhấn mạnh yếu tố chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính. Văn kiện Đại hội XIII cũng đặt ra các yêu cầu đối với cơ quan tư pháp, đó là: Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật. 
Đối với chính quyền địa phương, Đại hội XIII bổ sung, làm rõ hơn nội dung: tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.[34]
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030,[35] Đại hội XIII cũng khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, địa phương. Đổi mới phân cấp ngân sách nhà nước, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách theo hướng tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy sáng tạo của chính quyền địa phương”.[36]
Năm là, vai trò của thể chế, trong đó Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về mặt pháp luật, Đại hội XIII khẳng định: “Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội[37]. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn[38]. Do đó, Đại hội XIII đã yêu cầu: “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”.[39] Đồng thời, Đại hội XIII cũng đề ra mục tiêu có tính chiến lược, đó là: “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”. Có thể nói, đây là định hướng có tính chiến lược nhằm tiếp tục đề ra chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp mới đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ngoài ra, yêu cầu “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật...”[40] cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII.
Sáu là, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhà nước pháp quyền đề cao giá trị con người, đề cao quyền con người, quyền công dân đòi hỏi việc kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm mục đích là bảo vệ quyền con người, tất cả mọi hoạt động của Nhà nước cũng như của xã hội phải vì lợi ích của con người.[41] Tổng kết, đánh giá nhiệm kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII tiếp tục ghi nhận giá trị con người, đề cao quyền con người, quyền công dân, cụ thể: “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013”.[42] Ngoài ra, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, định hướng nhằm mục tiêu hướng tới bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đại hội XIII xác định xây dựng hệ thống pháp luật phải “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo”[43]; quy trình lập pháp của Quốc hội phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng nhằm “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”[44]; đối với lĩnh vực hành pháp, phải tập trung “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân”;[45] việc xây dựng nền tư pháp Việt Nam phải nhằm “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”[46].
Bảy là, yêu cầu đối với công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tổng kết, đánh giá nhiệm kỳ Đại hội XII về công tác cán bộ, Đại hội XIII đã nhận định: “Công tác cán bộ là "then chốt của then chốt" có nhiều đổi mới, đạt một số kết quả quan trọng”. Tuy nhiên, công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế: “Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng; chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc”.[47] “Công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm", bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.”[48] Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác cán bộ, đó là phải xác định: “Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu...”.[49]
Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên, Đại hội XIII yêu cầu: “Nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.[50] Để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh nhiệm vụ phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”.[51]
Tám là, tôn trọng và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề cập đến “sức cạnh tranh quốc tế” của hệ thống pháp luật là một nét rất mới trong Văn kiện Đại hội XIII, phù hợp với bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.[52] Theo đó, cần xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế; nội luật hóa những điều ước quốc tế, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể, trên cơ sở đánh giá chung về 10 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII đã khẳng định: “Hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; chú trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới”.[53] Một trong những nhiệm vụ quan trọng liên quan đến thể chế trong quá trình hội nhập quốc tế đó là phải “Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”.[54] Gần nhất, trong năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.[55]
Mỗi“một từ”, “một câu” hay “một chữ” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đều có ý nghĩa rất sâu sắc với tầm nhìn chiến lược, là những lời hiệu triệu thiêng liêng, tâm huyết của các thế hệ Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của Nhân dân ta được kế thừa và phát triển. Do đó, ra sức nghiên cứu, học tập để thấu hiểu và áp dụng nhanh chóng, hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm mới của Đảng, sớm đưa nội dung tinh thần Đại hội XIII vào hơi thở của từng lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó đặc biệt là thực hiện thành công các yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 để thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Nguyễn Văn Nghĩa – Vụ TCCB Tổng cục
 

[1] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 111-112.
[2] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 118.
[3] Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố vững mạnh (mục I.1.); Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới (mục I.1); Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước (mục I.2.); Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh (mục I.2.); Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh (mục I.2).
[4] PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hồi, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân: http://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang/17622.html.
[5] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 174-175 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[7] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[8] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục II.1.
[9] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIV.10.
[10] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XV.1.
[11] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 192.
[12] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục I.2.
[13] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 99-100.
[14] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[15] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[16] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[17] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[19] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 173.
[20] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mục XV.1.
[21] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 89.
[22] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 119.
[23] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mục I.1 và mục XIII.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2016, tr. 175.
[25] PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo & PGS. TS. Nguyễn Viết Thống, Một số vấn đề lý luận-thực tiễn cấp thiết liên quan trực tiếp đến đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, (Chuyên đề: Nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, TS. Uông Chu Lưu), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2018, tr. 738-739.
[26] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 99-100.
[27] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[28] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 94.
[29] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 185.
[30] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 176.
[31] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 285.
[32] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội XIII, mục XIII.
[33] Đại hội XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, mục V.1.
[34] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mục XIII.
[35] Đại hội XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, mục V.1.
[36] Đại hội XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, mục V.1.
[37] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mục I.1.
[38] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 89.
[39] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 175.
[40] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 202.
[41] GS. TS. Nguyễn Minh Đoan, tlđd, tr. 132.
[42] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 71.
[43] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 175.
[44] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 175.
[45] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 176.
[46] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 177.
[47] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 91.
[48] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 94-95.
[49] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 96.
[50] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 111.
[51] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 178-179.
[52] PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hồi, tlđd.
[53] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 101.
[54] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 135-136.
[55] ĐCSVN, tlđd, Tập I, tr. 107.