Kỹ năng thực hiện trình tự, thủ tục bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án (Phần I)

31/10/2025


I. KHÁI NIỆM VỀ BẢO ĐẢM TÀI CHÍNH
Bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án là việc ngân sách nhà nước hỗ trợ tài chính cho cho cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước để bảo đảm nghĩa vụ thi hành đối với bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp cơ quan, tổ chức này đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết để thi hành án mà vẫn không có khả năng thi hành xong nghĩa vụ theo bản bản án, quyết định của Tòa án tuyên.
Cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) là một trong những cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng được bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án. Trong trường hợp, cơ quan THADS có nghĩa vụ thi hành án đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có khả năng thi hành án thì ngân sách nhà nước bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA BẢO ĐẢM TÀI CHÍNH
Điều 65 Luật THADS đã quy định về bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án: “Trường hợp cơ quan tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp phải thi hành án đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có khả năng thi hành án thì ngân sách nhà nước bảo đảm nghĩa vụ thi hành án...”
Trên cơ sở đó, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS đã dành 04 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về bảo đảm tài chính để thi hành án và Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án (TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC) .
Ngoài ra, vấn đề này còn được quy định tại một số các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như: Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan nhà nước thực hiện theo cơ chế tài chính đặc thù được cấp có thẩm quyền quyết định sau khi đã sử dụng kinh phí tiết kiệm, chênh lệch thu chi hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập đã sử dụng kinh phí giao tự chủ tài chính theo quy định của Chính phủ hoặc khoản kinh phí tiết kiệm được sử dụng từ nguồn kinh phí hoạt động hàng năm theo quy định tại Nghị định số 84/2014/NĐ-CP ngày 08/09/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
1. Phạm vi, đối tượng bảo đảm tài chính để thi hành án
1.1. Phạm vi bảo đảm tài chính
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC thì khi các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (trong đó, có cơ quan THADS) phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà không có khả năng thi hành án thì Ngân sách nhà nước bảo đảm tài chính để thi hành án trong các trường hợp sau:
 (1) Đối với nghĩa vụ thanh toán bằng tiền được xác định trong bản án, quyết định, bao gồm nghĩa vụ bằng tiền mặt, nghĩa vụ bằng tài sản nếu bản án, quyết định đã quy ra thành tiền;
(2) Đối với nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định là nghĩa vụ giao tài sản nhưng tài sản phải giao bị giảm giá trị hoặc tài sản phải giao không còn sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Lưu ý: Bảo đảm tài chính để thi hành án chỉ được thực hiện đối với việc thanh toán tiền thi hành án cho người được thi hành án; Ngân sách nhà nước không bảo đảm tài chính để thi hành án đối với những khoản thi hành án nộp ngân sách nhà nước và các chi phí phát sinh khác liên quan đến việc tổ chức thi hành án.
Theo đó, tại Điều 5 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, đã xác định nghĩa vụ phải thi hành án, bao gồm:
-  Nghĩa vụ bằng tiền, nghĩa vụ bằng tài sản nếu bản án, quyết định đã quy ra thành tiền.
- Đối với nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định là nghĩa vụ giao tài sản nhưng tài sản phải giao bị giảm giá trị hoặc tài sản phải giao không còn sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, thì nghĩa vụ phải thi hành án là giá trị phần tài sản phải giao bị giảm sút hoặc giá trị của tài sản trong trường hợp tài sản phải giao không còn.
Giá trị giảm sút hoặc giá trị của tài sản phải giao được xác định theo văn bản thẩm định giá của tổ chức có chức năng thẩm định giá do cơ quan THADS ký hợp đồng thẩm định giá nếu các bên đương sự không thỏa thuận được việc thanh toán bằng tiền đối với tài sản là vật cùng loại hoặc thoả thuận thanh toán bằng tiền cao hơn giá trị trong văn bản thẩm định giá hay giá trị thoả thuận của các bên đương sự thấp hơn giá trị xác định trong văn bản thẩm định giá của tổ chức có chức năng thẩm định giá do cơ quan THADS sự ký hợp đồng thẩm định giá.
- Trong trường hợp cơ quan THADS phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án với nhiều người được thi hành án trong một bản án, quyết định hoặc phải thực hiện nhiều nghĩa vụ thi hành án trong nhiều bản án, quyết định khác nhau, thì nghĩa vụ phải thi hành án là tổng các nghĩa vụ thi hành án mà cơ quan THADS phải thực hiện.[a1] 
1.2. Đối tượng được bảo đảm tài chính để thi hành án
Theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 và Điều 1 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, thì đối tượng được bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thực hiện nghĩa vụ thi hành án gồm:
(1) Cơ quan nhà nước.
(2) Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan, đơn vị thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
(3) Đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành lập, được ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động.
(4) Đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động.
Căn cứ quy định trên, thì cơ quan THADS thuộc đối tượng được ngân sách nhà nước bảo đảm tài chính để thi hành án.
2. Điều kiện được bảo đảm tài chính để thi hành án
Theo quy định tại Điều 2 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, thì: Cơ quan THADS phải thi hành án thuộc diện được bảo đảm tài chính để thi hành án chỉ được ngân sách nhà nước bảo đảm tài chính để thi hành án khi đủ các điều kiện sau đây:
Một là, cơ quan THADS phải thi hành án đã yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ nhưng người đó chưa có khả năng thực hiện nghĩa vụ hoặc có nhưng số tiền đã nộp chỉ đáp ứng một phần nghĩa vụ thi hành án.
Hai là, cơ quan THADS phải thi hành án đã sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan nhà nước thực hiện theo cơ chế tài chính đặc thù được cấp có thẩm quyền quyết định sau khi đã sử dụng kinh phí tiết kiệm, chênh lệch thu chi hoặc các đơn vị sự nghiệp công lập đã sử dụng kinh phí giao tự chủ tài chính theo quy định của Chính phủ hoặc khoản kinh phí tiết kiệm được sử dụng từ nguồn kinh phí hoạt động hàng năm theo quy định tại Nghị định số 84/2014/NĐ-CP ngày 08/09/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nhưng vẫn không có khả năng thi hành án.
Như vậy, cơ quan THADS phải thi hành án khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp nêu trên nhưng vẫn không có khả năng thi hành án, thì ngân sách nhà nước cấp kinh phí để đảm bảo thi hành án.
Lưu ý: Khoản kinh phí tiết kiệm nêu trên được xác định tại thời điểm đơn vị lập hồ sơ bảo đảm tài chính để thi hành án và chỉ được sử dụng để bảo đảm cho các nghĩa vụ phải thi hành án. Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đến thời điểm cơ quan THADS phải thi hành án lập hồ sơ đề nghị bảo đảm tài chính, cơ quan THADS phải thi hành án không được phép chi khen thưởng, phúc lợi, thu nhập tăng thêm mà toàn số tiền tiết kiệm đó phải sử dụng để thực hiện các nghĩa vụ thi hành án.[a2] 
Do đó, để tránh ảnh hưởng đến khoản tiền tiết kiệm được của cơ quan, đơn vị phải thi hành án cũng như khoản lãi phát sinh do chậm thi hành án, trong thực tế thời gian qua Bộ Tài chính không cấp theo đề nghị của các cơ quan phải thi hành án nên trong trường hợp phát sinh vụ việc đã đủ các điều kiện được Ngân sách nhà nước cấp kinh phí bảo đảm tài chính để thi hành án, thì cơ quan, đơn vị phải thi hành án cần chủ động sớm lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bảo đảm tài chính.
3. Mức bảo đảm tài chính để thi hành án
Theo quy định tại Điều 6 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, thì mức bảo đảm tài chính để thi hành án do người có thẩm quyền quyết định, căn cứ vào kết quả thực hiện các biện pháp tài chính để thi hành án và hồ sơ đề nghị cấp kinh phí để thi hành án, cụ thể:
- Mức bảo đảm tài chính để thi hành án là phần còn lại của nghĩa vụ thi hành án sau khi cơ quan, tổ chức phải thi hành án đã áp dụng các biện pháp tài chính theo quy định Điều 2 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC để thanh toán một phần nghĩa vụ thi hành án, cụ thể: Đã yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ nhưng số tiền người có lỗi đó nộp chỉ đáp ứng được một phần nghĩa vụ thi hành án và cơ quan, tổ chức phải thi hành án đã sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ nhưng vẫn không có khả năng thi hành hết các nghĩa vụ thi hành án. 
- Mức bảo đảm tài chính để thi hành án là toàn bộ nghĩa vụ phải thi hành án trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải thi hành án không có khả năng áp dụng các biện pháp tài chính quy định tại Điều 2 TTLT số 07/2016/TTLT-BTP-BTC để thực hiện nghĩa vụ thi hành án, cụ thể: Đã yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ nhưng người có lỗi đó chưa có khả năng thực hiện nghĩa vụ và cơ quan, tổ chức phải thi hành án cũng không có khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ để thanh toán nghĩa vụ thi hành án.  (còn tiếp)

 [a1]Cái này có thể lồng ghép vào phạm vi bảo đảm tài chính thì sẽ liền mạch hơn. Để mọi người phân biệt giữa phạm vi nghĩa vụ thi hành án và phạm vi bảo đảm tài chính là khác nhau, qua đó hiểu rõ hơn về bảo đảm tài chính
 [a2]Từ điểm này rút ra những lưu ý đối với cơ quan THADS: Chủ động sớm lập hồ sơ bảo đảm tài chính, vì nếu kéo dài ảnh hưởng đến khoản tiền tiết kiệm được của cơ quan đơn vị; khoản lãi phát sinh do chậm thi hành án trên thực tế Bộ Tài chính không cấp theo đề nghị của các đơn vị