Thừa phát lại là một chế định pháp lý được ghi nhận tại Việt Nam từ năm 2010 với mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008, Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 và sau đó đã được chính thức triển khai thực hiện theo Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định Thừa phát lại.
Thừa phát lại đã bắt đầu trở thành một nghề, từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị định số 08/2020/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành đã kế thừa và phát huy những công việc mà Thừa phát lại đã làm được và làm tốt theo quy định của các Nghị định trước đây; khắc phục những hạn chế, bất cập trong thời kỳ thí điểm; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại. Bên cạnh đó, người dân, tổ chức, doanh nghiệp trên phạm vi cả nước đã hiểu biết hơn về pháp luật, ủng hộ, tin tưởng và sử dụng dịch vụ Thừa phát lại; các cơ quan tư pháp từng bước chuyển giao, chia sẻ công việc cho Thừa phát lại thực hiện, người dân sử dụng vi bằng làm căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các bên, là nguồn chứng cứ trước Tòa án.
Theo quy định tại Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ. Thừa phát lại tại Việt Nam có 04 công việc được thực hiện, bao gồm: “(1) Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan. (2) Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định này. (3) Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan; (4) Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Tính đến ngày 31/3/2025, cả nước có hơn 192 Văn phòng Thừa phát lại, và 417 Thừa phát lại tại 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
1. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục thi hành án của thừa phát lại theo quy định hiện hành
1.1. Thẩm quyền thi hành án
Thừa phát lại được quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở. Tuy nhiên, Thừa phát lại sẽ không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định
của Luật Thi hành án dân sự.
1.2. Yêu cầu Thừa phát lại thi hành án
- Người yêu cầu thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại thỏa thuận về việc tổ chức thi hành án thông qua hình thức hợp đồng dịch vụ.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại có văn bản đề nghị Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự hoặc Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở ra quyết định thi hành án theo thẩm quyền.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của Trưởng Văn phòng Thừa phát lại, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải xem xét, ra quyết định thi hành án; trường hợp không ra quyết định thi hành án thì phải trả lời bằng văn bản có nêu rõ lý do.
- Nội dung công việc Thừa phát lại các bên thỏa thuận để Thừa phát lại thực hiện để tổ chức thi hành án bao gồm: Xác minh điều kiện thi hành án; Tổ chức thi hành án; Thỏa thuận về việc thi hành án; Thanh toán tiền thi hành án.
1.3. Trình tự, thủ tục thi hành án của Thừa phát lại
* Thừa phát lại thực hiện các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị định này và pháp luật thi hành án dân sự. Khi tổ chức thi hành án, Thừa phát lại có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thực hiện kịp thời, đúng nội dung quyết định thi hành án được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành theo đề nghị của Trưởng Văn phòng Thừa phát lại; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Mời đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án;
- Kiến nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự xem xét sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án đã ban hành theo đề nghị của Trưởng Văn phòng Thừa phát lại;
- Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp cung cấp thông tin, tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án.
* Khác với cơ quan THADS và Chấp hành viên, khi tổ chức thi hành án, Thừa phát lại không được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy
của Luật Thi hành án dân sự;
- Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ;
- Xử phạt vi phạm hành chính;
- Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án;
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu;
- Các quyền yêu cầu Tòa án xác định người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ; xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản.
* Chấm dứt việc thi hành án của Thừa phát lại
Thừa phát lại chấm dứt thi hành án và phải thông báo cho Chi cục Thi hành án dân sự hoặc Cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án về việc chấm dứt thi hành án trong các trường hợp sau đây:
- Việc thi hành án đương nhiên kết thúc theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự;
- Theo thỏa thuận giữa Thừa phát lại và đương sự, trừ trường hợp việc chấm dứt làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
- Trường hợp phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của
Luật Thi hành án dân sự;
- Thừa phát lại tổ chức thi hành án mà phát sinh điều kiện thi hành án nằm ngoài địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở;
- Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo quy định
của Luật Thi hành án dân sự và người phải thi hành án không còn tài sản nào khác;
- Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch liên quan đến tài sản là vô hiệu theo quy
định của Luật Thi hành án dân sự và người phải thi hành án không còn tài sản nào khác;
- Các trường hợp phải yêu cầu Tòa án xác định người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ; xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản và người phải thi hành án không còn tài sản nào khác.
Thừa phát lại là một thiết chế bổ trợ tư pháp mới có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ thi hành án dân sự tại Việt Nam. Việc quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục thi hành án là điều kiện cần thiết để chế định này phát triển bền vững, tạo niềm tin cho người dân trong việc lựa chọn phương thức thi hành án hiệu quả, minh bạch, nhanh chóng.
1.4. Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thi hành án của Thừa phát lại
* Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm sau đây:
- Chi cục Thi hành án dân sự hoặc Cục Thi hành án dân sự nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở có trách nhiệm ra quyết định thi hành án theo đề nghị của Văn phòng Thừa phát lại; chuyển giao quyết định thi hành án cho Văn phòng Thừa phát lại đã đề nghị trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Cục Thi hành án dân sự nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở có trách nhiệm hỗ trợ việc thi hành án của Văn phòng Thừa phát lại, hướng dẫn việc phối hợp trong thi hành án giữa các Chi cục Thi hành án dân sự với Văn phòng Thừa phát lại và giữa các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn;
- Chi cục Thi hành án dân sự hoặc Cục Thi hành án dân sự có trách nhiệm phối hợp với các Văn phòng Thừa phát lại trong việc xác minh điều kiện thi hành án và thanh toán tiền thi hành án theo quy định.
* Cơ quan bảo hiểm xã hội, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng phối hợp cung cấp thông tin và hỗ trợ Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại trong việc xác minh điều kiện thi hành án theo quy định của Nghị định này và pháp luật thi hành án dân sự.
* Cơ quan đăng ký tài sản, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm có trách nhiệm:
a) Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án;
b) Thu hồi, sửa đổi, hủy các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất, giấy tờ đăng ký giao dịch bảo đảm đã cấp cho người phải thi hành án; thực hiện việc cấp mới các giấy tờ đó theo quy định của pháp luật.
1.5. Chi phí thi hành án của Thừa phát lại
Đối với việc tổ chức thi hành án, Văn phòng Thừa phát lại được thu chi phí theo mức phí thi hành án dân sự do pháp luật về phí, lệ phí quy định. Những vụ việc phức tạp, Văn phòng Thừa phát lại và người yêu cầu thi hành án có thể thỏa thuận về mức chi phí thực hiện công việc.
2. Tồn tại, hạn chế trong quy định pháp luật về tổ chức thi hành án của Thừa phát lại
Kết quả hoạt động của Thừa phát lại theo các chức năng không đồng đều, đặc biệt là việc thực hiện các chức năng liên quan đến Thi hành án dân sự (xác minh điều kiện thi hành án; trực tiếp tổ chức thi hành án) không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Theo báo cáo, tính đến năm 2024, các Văn phòng Thừa phát lại mới xác minh điều kiện thi hành án 23 việc, trực tiếp tổ chức thi hành án 32 vụ việc.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan như: nhận thức của người dân, doanh nghiệp và một số cơ quan, ban, ngành ở địa phương về chức năng, vai trò của Thừa phát lại còn hạn chế; số lượng Văn phòng Thừa phát lại còn ít, phân bố không đồng đều giữa các vùng miền (đặc biệt là khu vực phía Bắc); việc sử dụng thuật ngữ “Thừa phát lại” để đặt tên cho Văn phòng và chức danh Thừa phát lại khiến nhiều người dân khó hiểu, dễ nhầm lẫn, dẫn đến tâm lý e ngại, dè dặt khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ của Thừa phát lại; kỹ năng và kinh nghiệm tổ chức thi hành án dân sự của đội ngũ Thừa phát lại còn hạn chế… thì một trong những nguyên nhân quan trọng nhất chính là những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành.
Cụ thể, Luật Thi hành án dân sự hiện hành không quy định về trường hợp tổ chức thi hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện, mà chỉ quy định về cơ quan thi hành án nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại và Văn phòng Thừa phát lại mới chỉ được điều chỉnh ở cấp Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành, chưa có luật riêng làm cơ sở pháp lý đầy đủ và thống nhất.
Ngoài ra, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã thu hẹp đáng kể thẩm quyền của Trưởng Văn phòng và Thừa phát lại trong hoạt động thi hành án. Theo đó, Thừa phát lại không được tổ chức thi hành án đối với các vụ việc ngoài địa bàn quận, huyện nơi đặt trụ sở; Trưởng Văn phòng Thừa phát lại không được ra quyết định thi hành án, không được áp dụng các biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế. Những hạn chế này làm giảm tính chủ động, hiệu quả của Thừa phát lại trong tổ chức thi hành án và khiến người dân ít lựa chọn dịch vụ này.
Bên cạnh đó, quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về việc người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án nếu do Chấp hành viên thực hiện, đã làm giảm nhu cầu sử dụng dịch vụ xác minh điều kiện thi hành án tại Văn phòng Thừa phát lại. Đặc biệt, số lượng yêu cầu tổ chức thi hành án gửi qua Văn phòng Thừa phát lại ngày càng ít, càng cho thấy vai trò của Thừa phát lại trong lĩnh vực này chưa được pháp luật ghi nhận và khuyến khích đúng mức.
3. Đề xuất giải pháp
Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động THADS theo Nghị quyết số 49-NQ/TW
[1], đặc biệt là yêu cầu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW
[2], Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết để triển khai
[3], trong đó Nghị quyết số 107/2015/QH13 đã cho thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại từ ngày 01/01/2016 và giao Chính phủ xây dựng dự án Luật Thừa phát lại. Tuy nhiên, kết quả hoạt động THADS của Thừa phát lại còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Hiện nay, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW
[4], trong bối cảnh sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, số lượng án nhiều, giá trị tài sản thi hành án ngày càng lớn, tính chất pháp lý ngày càng phức tạp, Bộ Tư pháp xác định cần đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động THADS. Do đó, cần khắc phục được toàn bộ những tồn tại, hạn chế của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nghiên cứu đổi tên Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại thành Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên.
Lý do: theo quy định của pháp luật hiện hành, Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại chủ yếu thực hiện công việc tống đạt, lập vi bằng. Thực hiện chủ trương của Đảng về xã hội hóa hoạt động THADS theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW, dự thảo Luật đã quy định Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại thực hiện các hoạt động THADS như cơ quan THADS, Chấp hành viên. Do đó, cần đổi tên Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại thành Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên để phù hợp với phạm vi, tính chất hoạt động của tổ chức này.
Bên cạnh đó, “Thừa phát lại” là từ hán việt, không thông dụng trong xã hội Việt Nam. Căn cứ quy định tại Điều 7 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt, bảo đảm chính xác, phổ thông, thống nhất, diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đề xuất phương án đổi tên như trên.
Thứ hai, cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định để mở rộng, trao quyền cho Thừa phát lại (Thừa hành viên) khi tổ chức thi hành án, cụ thể:
- Thừa phát lại (Thừa hành viên) có nhiệm vụ, quyền hạn gần như bằng Chấp hành viên, trừ các nhiệm vụ liên quan đến quyền lực công như: xử phạt vi phạm hành chính; sử dụng công cụ hỗ trợ và trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế cần huy động lực lượng thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho ý kiến trước khi ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án.
- Bên cạnh việc quy định mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng THADS, Thừa hành viên khi tổ chức THADS, khi sửa Luật THADS cũng cần quy định cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động THADS do Văn phòng THADS, Thừa hành viên thực hiện như: quy định Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát hoạt động của Văn phòng THADS, Thừa hành viên.
- Đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế có huy động lực lượng của Văn phòng THADS, Thừa hành viên, cần nghiên cứu quy định: Văn phòng THADS phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền (Ban Chỉ đạo THADS tỉnh nơi Văn phòng THADS đặt trụ sở) trước khi Thừa hành viên ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án.