Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 117/2024/NĐ-CP (sau đây là Nghị định số 82/2020/NĐ-CP) được xây dựng căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 67/2020/QH14; Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 47/2019/QH14 và Luật số 20/2023/QH15; Luật Công chứng số 53/2014/QH13; Luật Quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 56/2014/QH13; Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH14; Luật Thanh tra số 11/2022/QH15; Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan…
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế bằng các văn bản quy phạm pháp luật: Luật Tổ chức Chính phủ số 63/2025/QH15; Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 88/2025/QH15; Luật Công chứng số 46/2024/QH15; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản số 37/2024/QH15; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam số 79/2025/QH15; Nghị định số 189/2025/NĐ-CP, ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, Nghị định số 190/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021…
Như vậy, về cơ bản, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật này đã làm thay đổi các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, thi hành án dân sự… Vì vậy, cần có sự rà soát để sửa đổi tổng thể các quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, hành vi vi phạm tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đã phát huy vai trò quan trọng trong xử lý các hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên, sau hơn 05 năm thực hiện và qua thực tiễn quản lý nhà nước, một số quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đã bộc lộ những vướng mắc, hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Thực tiễn phát sinh một số hành vi mới chưa được quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP; một số hành vi vi phạm hành chính chưa bảo đảm tính rõ ang, cụ thể, còn có các cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa bảo đảm tính thống nhất.
- Việc thay đổi cơ cấu tổ chức của các Bộ, ngành trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ và việc tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, cũng như việc Luật Thanh tra số 84/2025/QH15 được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2025; đặc biệt là ngày 25/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1898/QĐ-BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý Thi hành án dân sự, theo đó công tác quản lý nhà nước về Thừa phát lại được chuyển từ Cục Bổ trợ Tư pháp sang Cục Quản lý Thi hành án dân sự. Từ đó dẫn đến sự thay đổi lớn về tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức danh xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS.
Từ những lý do trên, đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thuộc thẩm quyền quản lý của Cục Quản lý THADS đối với một số nội dung sau:
1. Về lĩnh vực Thừa phát lại
1.1. Các hành vi đề nghị bổ sung
a) Bổ sung hành vi:
Lập vi bằng không thể hiện rõ mục đích lập vi bằng
- Căn cứ thực tiễn: nhiều trường hợp Văn phòng Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận hành vi, sự kiện giao nhận tiền mặt, chuyển khoản tiền mà không thể hiện rõ nội dung, mục đích giao nhận tiền. Hành vi này, tiềm ẩn một số giao dịch vi phạm pháp luật như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất nhưng không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu; giao dịch cho vay nặng lãi; các giao dịch, thỏa thuận trái pháp luật khác.
- Đề xuất mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng; Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng thẻ Thừa phát lại từ 06 tháng đến 09 tháng đối với hành vi vi phạm; Biện pháp khắc phục hậu quả: thu hồi, hủy bỏ vi bằng đã lập vi phạm quy định này.
b) Bổ sung hành vi
“Phân công Thừa phát lại hướng dẫn tập sự quá số người tập sự quy định”
- Căn cứ pháp lý: Tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 05/2020/TT-BTP ngày 28/8/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định 01 Thừa phát lại không được hướng dẫn nhiều hơn 03 người tập sự.
- Đề xuất mức phạt: phạt tiền từ 3.000.000 đồng – 7.000.000 đồng
c. Bổ sung hành vi
“Mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở văn phòng Thừa phát lại”
- Căn cứ pháp lý: khoản 5 Điều 17 Nghị định số số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định “Văn phòng Thừa phát lại không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch ngoài trụ sở của Văn phòng Thừa phát lại”. Trên thực tế quản lý nhà nước về Thừa phát lại cũng đã có trường hợp này xảy ra.
- Đề xuất mức phạt: phạt tiền từ 3.000.000 đồng – 7.000.000 đồng
1.2. Các hành vi đề nghị nâng mức phạt
- Đề nghị nâng mức phạt của các hành vi quy định tại điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 33 từ 1.000.000 đồng – 3.000.000 đồng lên 3.000.000 đồng – 7.000.000 đồng để đảm bảo phù hợp với nhóm hành vi tương tự trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp khác. Bao gồm các hành vi sau:
a) Không niêm yết lịch làm việc hoặc nội quy tiếp người yêu cầu tại trụ sở văn phòng Thừa phát lại;
b) Không niêm yết thủ tục hoặc chi phí thực hiện công việc tại trụ sở văn phòng Thừa phát lại;
c) Lập, quản lý, sử dụng sổ sách, biểu mẫu không đúng quy định;
d) Thực hiện không đầy đủ chế độ thông tin, báo cáo theo quy định; chấp hành không đầy đủ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền về việc báo cáo phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát;
đ) Sử dụng biển hiệu không đúng mẫu quy định;
- Căn cứ thực tiễn: Mức phạt với các hành vi trên hiện tại từ 1.000.000 đồng – 3.000.000 đồng, mức phạt này thấp hơn so với các lĩnh vực bổ trợ tư pháp khác như công chứng, tư vấn pháp luật (từ 3.000.000 đồng – 7.000.000 đồng) dẫn đến chưa đảm bảo tính tương đồng trong chế tài xử phạt.
1.3. Về bổ sung biện pháp khắc phục
- Tại khoản 9 Điều 32 đề nghị bổ sung biện pháp khắc phục đối với vi bằng đã lập vi phạm quy định tại điểm b, c, d, đ, e, g, h, k khoản 4 và khoản 7 Điều này.
- Đề xuất chế tài: buộc thu hồi, hủy bỏ vi bằng đã lập vi phạm quy định tại điểm b, c, d, đ, e, g, h, k khoản 4 và khoản 7 Điều này.
1.3. Về thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính
a. Về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 82)
- Bãi bỏ thẩm quyền lập biên bản của Công chức Phòng Tư pháp cấp huyện để phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay.
- Bãi bỏ thẩm quyền của Công chức Thanh tra Bộ Tư pháp để phù hợp với Luật Thanh tra năm 2025.
b. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
- Bãi bỏ thẩm quyền của Thanh tra viên Tư pháp, Chánh Thanh tra Cục Bổ trợ tư pháp, Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn Thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp, Trưởng đoàn Thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp tại Điều 84 và Điều 88 của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, để phù hợp với Luật Thanh tra năm 2025.
- Bổ sung thêm thẩm quyền xử phạt của Giám đốc Sở Tư pháp để phù hợp với khoản 4 Điều 1 của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính; khoản 2 Điều 6 Nghị định số 189/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
- Bổ sung thẩm quyền của Cục trưởng Cục quản lý THADS về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thừa phát lại (Điều 65). Đồng thời bãi bỏ thẩm quyền của Cục trưởng Cục Bổ trợ Tư pháp trong lĩnh vực Thừa phát lại (Điều 65 và điểm d khoản 2 Điều 88). Lý do: Theo quy định tại Quyết định số 1898
/QĐ-BTP ngày 25/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý THADS trực thuộc Bộ Tư pháp thì chức năng quản lý nhà nước về Thừa phát lại được giao cho Cục Quản lý THADS thực hiện.
2. Về lĩnh vực Thi hành án dân sự
2.1. Các hành vi đề nghị bổ sung
- Bổ sung hành vi
“Không cung cấp thông tin định danh cá nhân” vào điểm a khoản 2 Điều 64 Nghị định 82/2020/NĐ-CP
- Căn cứ pháp lý: Tại dự thảo Luật THADS (sửa đổi, bổ sung) đang trình Quốc hội có quy định bổ sung nghĩa vụ của người được thi hành án và người phải thi hành án là phải
“cung cấp thông tin định danh cá nhân”.
2.2. Về thẩm quyền xử phạt
- Bãi bỏ Điều 85 Nghị định 82/2020/NĐ-CP vì Điều 16 Nghị định số 189/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
(có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2025) đã quy định cụ thể thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong THADS gồm: Cục trưởng Cục Quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, Cục trưởng Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng cơ quan THADS, Trưởng phòng Phòng Thi hành án cấp quân khu, các mức phạt cũng rất rõ ràng; hoặc có thể quy định dẫn chiếu đến Điều 16 Nghị định số 189/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết Luật xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
- Bãi bỏ thẩm quyền xử phạt của Chi cục trưởng Chi cục THADS tại điểm a khoản 3 Điều 88 do sau sắp xếp tổ chức bộ máy thì tổ chức của hệ thống THADS không còn Chi cục THADS.
- Sửa điểm c khoản 3 Điều 88 “Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” thành “Trưởng Thi hành án dân sự” để phù hợp với mô hình tổ chức của hệ thống THADS sau sắp xếp.
- Sửa điểm c khoản 3 Điều 88 “Tổng cục trưởng Tổng cục THADS” thành: “Cục trưởng Cục quản lý THADS”; sửa “các khoản 1, 2, 3 điểm a và điểm b khoản 4 Điều 65 Nghị định này” thành “ Điều 65 Nghị định này”. Lý do: sau sắp xếp tổ chức bộ máy, Tổng cục THADS chuyển thành Cục quản lý THADS; về thẩm quyền, tại mục 1.3 nêu trên đã đề nghị bổ sung thẩm quyền xử phạt của Cục trưởng Cục quản lý THADS trong lĩnh vực Thừa phát lại (toàn bộ nội dung Điều 65).
Xuất phát từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc sửa đổi Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thừa phát lại và thi hành án dân sự nêu trên là hết sức cần thiết, bảo đảm tính đồng bộ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hệ thống pháp luật.