Theo nội dung Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012 của TAND quận H thì: Công ty TNHH SXTM TH phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Ngân hàng) tổng cộng nợ gốc, lãi trọng hạn và quá hạn của 05 Hợp đồng tín dụng nói trên (tính đến ngày 19/9/2012) là 238.718.619.445 đồng.
Tiếp tục duy trì hiệu lực của các hợp đồng thế chấp tài sản số 200800552.PN/BĐTV-TC ngày 05/12/2008 (số công chứng 041252, quyển số 12); số 200800586.PN/BĐTV-TC ngày 29/12/2008 (số công chứng 045274, quyền số 12), số 200900137.PN/BĐTV-TC ngày 28/5/2009 (số công chứng 019073, quyển số 5), số 200900294.PN/BĐTV-TC ngày 28/9/2009 (số công chứng 034991, quyển số 9) và số 200900302/PN/BĐTV-TC ngày 27/10/2009 (số công chứng 038836, quyển 10) ký kết giữa Công ty TNHH SXTM TH, ông Lê Phước T, bà Nguyễn Kim C, bà Lê Thị Việt K và Ngân hàng.
Trong trường hợp Công ty TNHH SXTM TH không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi các tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp gồm: Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 05A và Quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 7 HT, phường B, thành phố H.
Do Công ty TNHH SXTM TH không thi hành án cho nên ngày 16/10/2013, cơ quan thi hành án dân sự đã ra Quyết định số 03/QĐ-CCTHA để kê biên tài sản thế chấp của người phải thi hành án. Ngày 09/5/2016, tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 7 HT, phường B, thành phố H đã được bán đấu giá thành cho bà Đỗ Thị L với số tiền là 52.820.000.000 đồng, bà Đỗ Thị L đã nộp đủ tiền mua trúng đấu giá.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, ngày 08/12/2014 cơ quan thi hành án dân sự nhận được đơn của Hoàng Thị DH yêu cầu dừng việc xử lý tài sản trên với lý do là: Khi nhận chuyển quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 7 HT, phường B, thành phố H thì bà Lê Thị Việt K còn nợ của 1.050 cây vàng. Do không có cơ sở xem xét đề nghị của bà Hoàng Thị DH nên cơ quan thi hành án dân sự từ chối đề nghị trên. Tuy nhiên, khi tài sản được bán đấu giá thành, ngày 30/6/2016, bà Hoàng Thị DH cung cấp thông tin về việc đang khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị Việt K thực hiện nghĩa vụ trả số tiền mua tài sản còn thiếu là 1.050 cây vàng, trường hợp bà Lê Thị Việt K không trả, bà yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán mua bán tài sản giữa các bên.
Ngày 22/8/2016, Tòa án có văn bản với nội dung: ngày 29/10/2015, Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án DSST số 1431/2015/GB-TA ngày 29/10/2015 về việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất tại số 7 HT, phường B, thành phố H giữa nguyên đơn là bà Hoàng Thị DH, bị đơn là bà Lê Thị Việt K. Theo đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng mua bán nhà ở số 001082 do Phòng công chứng số 1 chứng nhận ngày 08/01/2008 giữa bà Hoàng Thị DH, ông Ngô Chí T và bà Lê Thị Việt K về việc mua bán căn nhà số 7 HT, phường B, thành phố H. Hiện nay, vụ việc đang ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Sau khi nhận được văn bản trên của Tòa án, thì có các ý kiến khác nhau trong việc tổ chức thi hành Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012. Theo đó:
Ý kiến thứ nhất: cho rằng trong trường hợp này khi nhận được văn bản của Tòa án về thông báo thụ lý Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, cơ quan thi hành án phải căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án để hoãn thi hành án cho đến khi có kết quả xét xử của Tòa án.
Ý kiến thứ hai: Việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa Hoàng Thị DH bà Lê Thị Việt K không liên quan đến thi hành Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012 nên không cơ sở để hoãn thi hành án.
Quan điểm của tác giả:
Trong vụ việc này, cơ quan thi hành án dân sự không căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự để hoãn thi hành án mà phải tiếp tục tổ chức thi hành án giao tài sản cho người mua trúng đấu giá và chi tiền cho ngân hàng, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, việc chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 7 HT, phường B, thành phố H giữa bà Hoàng Thị DH, ông Ngô Chí T với bà Lê Thị Việt K theo hợp đồng mua bán nhà ở số 001082 do Phòng Công chứng số 1 chứng nhận ngày 08/01/2008 đã hoàn thành và Trung tâm thông tin tài nguyên và môi trường thành phố chứng nhận và đăng bộ vào ngày 17/01/2008. Do đó, có thể khẳng định quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 7 HT, phường B, thành phố H là của bà Lê Thị Việt K.
Thứ hai, việc bà Lê Thị Việt K thế chấp tài sản trên để đảm bảo Công ty TNHH SXTM TH là phù hợp với quy định tại Điều 106 Luật Đất đai năm 2003 và các quy định pháp luật về dân sự và tín dụng, ngân hàng. Hợp đồng thế chấp này đã được Tòa án công nhận tại Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên có tránh nhiệm tổ chức thi hành án. Do đó, việc cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản là nhà, đất tại số 7 HT, phường B, thành phố H là của bà Lê Thị Việt K là thực hiện theo đúng nội dung quyết định của Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012.
Thứ tư, Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012 vẫn có hiệu lực pháp luật kể cả trường hợp Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất tại số 7 HT, phường B, thành phố H giữa bà Hoàng Thị DH, ông Ngô Chí T với bà Lê Thị Việt K trừ trường hợp Bản án này bị kháng nghị theo thủ tục Tái thẩm hoặc Giám đốc thẩm.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển bằng giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đó mà xác lập, thực hiện giao dịch đó thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Như vậy, trong trường hợp Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng tài sản là nhà, đất số 7 HT, phường B, thành phố H giữa bà Hoàng Thị DH, ông Ngô Chí T với bà Lê Thị Việt K thì Hợp đồng thế chấp tài sản là nhà, đất số 7 HT, phường B, thành phố H giữa bà Lê Thị Việt K với ngân hàng cũng không bị vô hiệu.
Từ những lý do trên cho thấy không có cơ sở để áp dụng quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự để hoãn thi hành Bản án số 29/2012/KDTM-ST ngày 19/9/2012. Ngoài ra, nếu cơ quan thi hành án hoãn thi hành án và thực hiện giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tài sản sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua trúng đấu giá và người được thi hành án. Việc hoãn thi hành án trong trường hợp này sẽ có nguy cơ phát sinh bồi thường do việc chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu giá và chi tiền cho người được thi hành án.
Hiện nay, rất nhiều đương sự đã lợi dụng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự để kéo dài việc thi hành án cũng như trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án, do đó, đề nghị liên ngành trung ương có hướng dẫn cụ thể trong các trường hợp tương tự. Trong khi chờ hướng dẫn của liên ngành, đối với các vụ việc tương tự cơ quan thi hành án dân sự cần thông báo, trao đổi rõ với Tòa án về việc tổ chức thi hành án, đồng thời, hướng dẫn đương sự đề nghị Tòa án áp dụng biện khẩn cấp tạm thời để có cơ sở dừng việc thi hành án.
Thu Trang