Sign In

Những khó khăn, vướng mắc khi thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án liên quan đến các tổ chức tín dụng để thu hồi nợ

15/07/2015

Nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam là vấn đề nhức nhối, làm xói mòn sức khỏe của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), gây tắc nghẽn dòng luân chuyển vốn giữa các thị trường bộ phận của nền kinh tế và cản trở đáng kể đến mức tăng trưởng kinh tế. Nợ xấu của hệ thống các TCTD đã trở thành tâm điểm quan tâm, lo lắng của các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường. Nợ xấu ngân hàng đã được ví như “cục máu đông”, làm xói mòn sức khỏe của hệ thống và gây tắc nghẽn dòng vốn trong hệ thống ngân hàng, khiến việc luân chuyển vốn giữa các khu vực của nền kinh tế bị đình trệ, đặc biệt là dòng vốn chảy vào khu vực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế
Nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam là vấn đề nhức nhối, làm xói mòn sức khỏe của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), gây tắc nghẽn dòng luân chuyển vốn giữa các thị trường bộ phận của nền kinh tế và cản trở đáng kể đến mức tăng trưởng kinh tế. Nợ xấu của hệ thống các TCTD đã trở thành tâm điểm quan tâm, lo lắng của các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể tham gia thị trường. Nợ xấu ngân hàng đã được ví như “cục máu đông”, làm xói mòn sức khỏe của hệ thống và gây tắc nghẽn dòng vốn trong hệ thống ngân hàng, khiến việc luân chuyển vốn giữa các khu vực của nền kinh tế bị đình trệ, đặc biệt là dòng vốn chảy vào khu vực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/ 2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, trong đó có nội dung thực hiện có hiệu quả các giải pháp xử lý nợ xấu, phấn đấu giảm nợ xấu xuống dưới mức 3% vào cuối năm 2015. Thi hành các quyết định, bản án của Toà án liên quan đến các TCTD cũng là một trong hàng loạt các biện pháp để xử lý nợ xấu theo chỉ đạo của Bộ tư pháp.Vì vậy, ngay từ đầu năm 2015, Bộ tư pháp đã ban hành Chương trình hành động của ngành tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2015 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội  và dự toán Nhà nước, trong đó đặt ra 3 yêu cầu đối với công tác thi hành án dân sự , một trong 3 yêu cầu: “Tập trung giải quyết các vụ việc liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng”.
Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của toà án liên quan đến các tổ chức tín dụng để thu hồi nợ là một trong trong các loại việc được xếp vào thi hành án kinh doanh thương mại. Việc thu hồi nợ phụ thuộc rất nhiều người phải thi hành án tự nguyện trả nợ hoặc giữa ngân hàng và bên phải thi hành án thoả thuận với nhau, hoặc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, định giá, bán đấu giá. Tổ chức tín dụng có thể thu hồi được nợ sớm hay muộn phụ thuộc vào kết quả thi hành án. Mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiêu lực pháp luật của Tòa án tuyên phát mại tài sản bảo đảm, nhưng trong quá trình thi hành bản án, quyết định nêu trên vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Có những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tạo ra, nhưng cũng có nhiều khó khăn do chính bản án và người phải thi hành án tạo ra. Trong phạm vi chuyên đề này chúng tôi muốn đề cập những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của toà án liên quan đến các tổ chức tín dụng để thu hồi nợ, đồng thời đề xuất một số kiến nghị để khắc phục những khó khăn, vướng mắc này.
Thứ nhất : Khó khăn vướng mắc do quy định pháp luật
1.Trình tự thủ tục về thi hành án phức tạp và rườm rà mà chưa có cơ chế đặc thù để nhanh chóng thu hồi nợ xấu.
Đây cũng là nhận xét của hầu hết các ngân hàng, tổ chức tín dụng khi tham gia vào quá trình thi hành án. Theo quy định pháp luật thi hành án dân sự (Văn bản hợp nhất: Luật thi hành án dân sự, đã được sửa đổi bổ xung năm 2014; Nhà xuất bản Tư pháp)  các biện pháp thi hành án được quy định hết sức chặt chẽ như biện pháp thoả thuận thi hành án (Điều 6); tự nguyện và cưỡng chế thi hành án (Điều 9); các biện pháp bảo đảm (từ điều 66 đến 69); riêng cưỡng chế thi hành án có 6 hình thức (quy định tại điều 71). Để thực hiện việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án phải đảm bảo các yêu cầu: đã hết thời gian tự nguyện; người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án, ngoài ra hồ sơ còn phải thể hiện quan điểm chính quyền địa phương, xác minh cụ thể về tài sản dự kiến thi hành án và nhân thân, thái độ của người phải thi hành án cũng như gia đình họ để có các biện pháp xử lý phù hợp, chấp hành viên còn phải thực hiện theo Luật thi hành án dân sự  2014 hướng dẫn ở Điều 88: thực hiện việc kê biên; Điều 89 kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm .
 Thông thường, đối với các loại việc liên quan đến tín dụng ngân hàng, nếu các đương sự không thoả thuận với nhau thì chấp hành viên phải ra quyết định kê biên tài sản (kể cả trường hợp bên phải thi hành án tự nguyện để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án), sau khi kê biên xong theo quy định phải thực hiện việc uỷ quyền thẩm định giá và uỷ quyền bán đấu giá. Theo quy định pháp luật, trình tự thủ tục này chấp hành viên phải tuân thủ một cách nghiêm túc, không có trường hợp ngoại lệ. Kể từ khi thụ lý (5 ngày kể từ ngày nhận đơn), ra quyết định thi hành án và giao nhận quyết định thi hành án đương sự có thời gian 10 ngày tự nguyện thi hành án, chấp hành viên xác minh, rồi họp chuẩn bị cưỡng chế và tiến hành thực hiện quyết định cưỡng chế…Vì vậy, chấp hành viên phải rất thận trọng bởi một sai sót sẽ dẫn tới bồi thường trong khi pháp luật chưa có cơ chế miễn trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự không phải lỗi cố ý hoặc vi phạm phẩm chất đạo đức. Chính vì các quy định pháp luật hết sức chặt chẽ, cả về trình tự thủ tục cũng như về thời gian. Trong khi các tổ chức tín dụng ngân hành, kể từ khi khởi kiện đến khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và giai đoạn thi hành án là quá dài không đáp ứng được yêu cầu và sự mong muốn của các tổ chức tín dụng.
Kiến nghị: trong vài năm trở lại đây và tiếp theo các năm sắp tới, thu hồi nợ xấu cho các tổ chức tín dụng ngân hàng đang và sẽ nhiều hơn, giá trị phải thi hành ngày càng lớn đòi hỏi các quy định pháp luật phải đơn giản hơn, rút ngắn được thời gian để thu hồi nợ sớm cho các tổ chức tín dụng (trong đó có một phần là vốn của nhà nước) rất cần có cơ chế đặc thù để giải quyết các loại việc này. Nên chăng, đối với các bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật liên quan đến loại việc kinh doanh thương mại có tài sản bảo đảm (thế chấp hoặc bảo lãnh), pháp luật nên quy định hết thời gian tự nguyện có thể sử lý ngay tài sản bảo đảm mà không cần phải xác minh các tài sản khác. 
2.Pháp luật về thi hành án dân sự chỉ quy định sử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà chưa quy định cụ thể tài sản bảo lãnh  :
Tại Điều 90 Luật thi hành án dân sự quy định : Kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp: “1. Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án”. Khi tiến hành kê biên tài sản để đảm bảo nợ vay, pháp luật về thi hành án dân sự quy định vẫn chưa thật đầy đủ và phù hợp với luật dân sự 2005, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm 7 biện pháp. Thực tế hiện nay, các ngân hàng và tổ chức tín dụng thông thường sử dụng các biện pháp thế chấp và bảo lãnh để đảm bảo cho khoản vay (thường tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ vay là tài sản có thực cũng có thể tài sản hình thành trong tương lai: là bất động sản hoặc dây chuyền máy móc thiết bị) nên không thể thực hiện biện pháp cầm cố được (biện pháp cầm cố tài sản thì bên cầm cố phải giao tài sản của mình cho bên nhận cầm cố, còn biện pháp thế chấp thì bên thế chấp dùng tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhưng không chuyển giao tài sản của mình cho bên nhận thế thế chấp). Còn tài sản bảo lãnh cho khoản vay thì các quy định pháp luật thi hành án chưa đề cập một cách logic nên khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với trường hợp bảo lãnh.
Kiến nghi: Đây chính là một khó khăn do quy định pháp luật tạo ra, rất cần các cấp có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn để việc thi hành án đồng bộ, thống nhất giảm thiểu các khiếu nại không đáng có. Cụ thể là đưa hình thức bảo lãnh vào trong các quy phạm pháp luật đã nêu ở trên vào các văn bản quy phạm pháp luật. 
3.Pháp luật về thi hành án dân sự chưa quy định chi tiết thứ tự xử lý tài sản thế chấp và bảo lãnh và hậu quả pháp lý khi đã xử lý hết tài sản bảo đảm cho khoản vay:
Điều 95 của Luật cũng quy định: “ 1. Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án. 2. Khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở. Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của người khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà. 3. Khi kê biên nhà ở của người phải thi hành án đang cho thuê, cho ở nhờ thì Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người đang thuê, đang ở nhờ biết. Trường hợp tài sản kê biên là nhà ở, cửa hàng đang cho thuê được bán đấu giá mà thời hạn thuê hoặc thời hạn lưu cư vẫn còn thì người thuê có quyền tiếp tục được thuê hoặc lưu cư theo quy định của Bộ luật dân sự.4. Việc kê biên nhà ở bị khoá được thực hiện theo quy định tại Điều 93 của Luật này”.
Các điều luật trên rất phù hợp với các trường hợp đã xảy ra trên thực tiễn, tuy nhiên đối với các bản án, quyết định liên quan đến các tổ chức tín dụng, ngân hàng mà có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh thì chưa thật phù hợp bởi để đảm bảo khoản vay đã có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh (tài sản có thể là động sản hoặc bất động sản; các tài sản hình thành trong tương lai). Việc quy định như trên khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế kê biên là các tài sản cầm cố, thế chấp không có có ngoại lệ trong khi  tại  Điều 318 Bộ luật dân sự 2005 quy định : Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự 1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:a) Cầm cố tài sản;b) Thế chấp tài sản;c) Đặt cọc;d) Ký cược;đ) Ký quỹ;e) Bảo lãnh;g) Tín chấp.2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về biện pháp bảo đảm thì người có nghĩa vụ phải thực hiện biện pháp bảo đảm đó”.
Như vậy, nếu bên vay mà không trả được nợ theo cam kết bởi hợp đồng tín dụng thì bên chủ nợ kiện ra toà án, với bản án có hiệu lực thì để đảm bảo khoản vay nếu hết thời gian tự nguyện thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh. Để việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản (có thể tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh) chấp hành viên vẫn phải thực hiện theo các điều luật trên để chứng minh người phải thi hành án không có tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án mới tiến hành kê biên tài sản đã thế chấp hoặc bảo lãnh. Quy định của Luật thi hành án dân sự như trên là chưa phù hợp với việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đã mang tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh và cũng kéo dài thời gian để thu hồi nợ. Nếu trường hợp qua xác minh người phải thi hành án có các loại tài sản khác thì việc xử lý tài sản đã thế chấp, bảo lãnh như thế nào (xử lý tài sản không được bảo lãnh hay thế chấp trước hay xử lý tài sản bảo lãnh thế chấp trước).
Giữa bảo lãnh và thế chấp có sự khác nhau cơ bản : thế chấp là bên có nghĩa vụ dùng tài sản của mình để đảm bảo cho khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ (Điều 318 Bộ luật dân sự 2005) còn bảo lãnh là dùng tài sản của bên thứ ba để đảm bảo cho nghĩa vụ (người vay) nếu người vay không trả nợ hoặc không còn khả năng trả nợ thì xử lý tài sản của người bảo lãnh để trừ nợ, theo quy định thì thế chấp chỉ có hai bên, còn bảo lãnh có bên thứ ba – bên bảo lãnh. Nếu trong trường hợp một bản án có cả tài sản thế chấp và tài sản bảo lãnh thì khi sử lý tài sản nào trước, tài sản nào sau phụ thuộc hoàn toàn vào ý kiến của các bên đương sự mà pháp luật cũng không quy định rõ ràng trong trường hợp chấp hành viên phải lựa chọn sử lý tài sản.
Khi các bên giao kết hợp đồng thế chấp, bảo lãnh thì các chủ thể cũng tự ý thức được có một phần rủi ro không mong muốn. Các ngân hàng khi cho vay cũng có các trình tự thủ tục, đặc biệt trước khi cho vay, nhân hàng đã thuê tổ chức độc lập (hoặc tổ chức khác nằm trong hệ thống ngân hàng) có chức năng thẩm định giá tài sản bảo đảm cho khoản vay tại thời điểm cho vay và khi thực hiện cho vay chỉ bằng 50-60% giá trị của tài sản nhằm đảm bảo cho nguồn vay. Chính vì vậy, khi đã xử lý hết tài sản bảo lãnh hay thế chấp sẽ có một trong hai tình huống xảy ra: Số tiền bán tài sản bảo đảm còn thừa so với khoản vay và các chi phí; trường hợp số tiền bán tài sản bảo đảm không đủ trả cho khoản vay. Trong trường hợp số tiền bán tài sản còn thừa so với khoản vay thì sẽ trả lại cho bên có tài sản (bên phải thi hành án); trường hợp số tiền bán tài sản không đủ trả cho khoản vay theo quy định pháp luật  phải xác minh các tài sản khác để tiếp tục thi hành án, trường hợp không có điều kiện thi hành án (không có tài sản) thì trả lại đơn yêu cầu thi hành án (Luật thi hành án dân sự 2008) còn theo Luật thi hành án dân sự 2014 thì vụ việc được xác định không có điều kiện thi hành án. Ở đây, theo chúng tôi cần phân biệt hai trường hợp: đối với tài sản thế chấp và trường hợp bảo lãnh. Trường hợp thế chấp nếu khi sử lý tài sản thế chấp mà không đủ thanh toán cho khoản vay thì có thể xác minh các tài sản khác, nếu tài sản đó mà có đủ điều kiện thì tiếp tục xử lý theo quy định. Trường hợp bảo lãnh, căn cứ hợp đồng tín dụng thì tài sản bảo lãnh sẽ bảo lãnh tối đa cho khoản vay khoảng 80-90% giá trị tài sản do ngân hàng thẩm định giá trước khi cho vay (khoản vay thông thường chỉ chiếm khoảng từ 40-50% giá trị tài sản) và được giới hạn bảo lãnh trong phạm vi giá trị tài sản bảo lãnh.Như vậy có thể nói trước khi cho vay ngân hàng đã tính toán hết tỉ lệ rủi ro (nếu có), khi các bên ký kết hợp đồng đã phải chịu trách nhiệm kể cả phần rủi ro trong đó, vì vậy nếu trong trường hợp bán toàn bộ tài sản bảo đảm mà không đủ để thanh toán khoản vay thì các bên cũng phải gánh chịu tổn thất thực tế đó. Như vậy, bên bảo lãnh tài sản sau khi bán toàn bộ tài sản bảo lãnh thì không thể chịu trách nhiệm gì với khoản nợ còn thiếu mà chính là bên vay phải chịu trách nhiệm với các tài sản khác (nếu có). Việc xác định tư cách các đương sự trong thi hành án chưa được quy định rõ ràng trong trường hợp đối với người bảo lãnh, bởi khi ra quyết định thi hành án, bên phải thi hành án là bên vay theo hợp đồng tín dụng còn người bảo lãnh là bên có quyền –nghĩa vụ liên quan, khi sử lý tài sản bảo lãnh thì bên bảo lãnh được xác định cùng với bên vay trở thành bên phải thi hành án. Việc quy định hiện nay của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn chưa phân biệt rõ ràng giữa bên phải thi hành án và bên bảo lãnh chưa thật phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết thoả thuận (Điều 4 Luật dân sự) và nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Điều 7 Luật dân sự). Mặt khác, quy định pháp luật thiếu rõ ràng dẫn đến việc hiểu và vận dụng của những người thực hiện không thống nhất và đồng bộ.
   Một điều cũng gây khó khăn trong việc xử lý tài sản bởi quy định quá chặt chẽ và định lượng rõ ràng Khoản 1, Điều 90 Luật thi hành án dân sự : “Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án” .Tại thời điểm này, do thị trường bất động sản bấp bênh nên thông thường tài sản cầm cố thế chấp khi định giá thấp hoặc bằng khoản vay (chưa kể các chi phí theo quy định), như vậy quy định như trên càng gây khó khăn cho chấp hành viên khi tiến hành kê biên tài sản và cũng tạo điều kiện cho cho việc khiếu nại của các đương sự.
Thứ hai : Khó khăn xuất phát từ bản án:         
 Trong quá trình thi hành án có không ít trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng cơ quan thi hành án (CQTHA) dân sự không thể thi hành.
1. Vướng mắc khó khăn lớn nhất ở đây chính là ở một số bản án kinh doanh thương mại (KDTM) hay tuyên “gộp” các hợp đồng tín dụng với khoản phải thi hành án rất lớn mà không phân định từng tài sản của từng chủ thể (có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình) để đảm bảo khoản vay tối đa là bao nhiêu nên dẫn đến việc sử lý tài sản của chấp hành viên gặp rất nhiều khó khăn. Có những bản án KDTM mà có nhiều tài sản đảm bảo nhưng không cùng một quận, huyện mà có nhiều quận huyện khác nhau cũng phân định khoản vay của từng tài sản nên cơ quan thi hành án không thể thi hành và cũng không thể uỷ thác theo quy định được.
Ví dụ : Tại bản án số 01/2014/KDTM-ST ngày 14/01/2015 của Toà án nhân dân quận X; xét xử về việc tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa : Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam; bị đơn Công ty TNHH một thành viên Nguyễn Xuân P; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Xuân P và vợ Đỗ Thị X, anh Nguyễn Văn T và vợ Nguyễn Thị H, ông Đỗ Văn T và  vợ là Kiều Thị L . Phần quyết định của bản án tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thuơng mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB).2. Xác định Công ty TNHH MTV Nguyễn Xuân Phúc còn nợ Ngân hàng Thuơng Mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) số tiền gốc của Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số DN043/HĐTD02- VIB019/11 ngày 5/07/2011, các khế uớc nhận nợ: Tổng cộng là 3.946.686.375đ (Ba tỷ chín trăm bốn mươi sáu triệu sáu trăm tám muơi sáu ngàn ba trăm bảy muơi lăm đồng).3. Buộc công ty TNHH MTV Nguyễn Xuân P phải có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng VIB tổng cộng là 3.946.686.375đ. Trong trường hợp công ty TNHH MTV Nguyễn Xuân P không thanh toán khoản nợ trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan thi hành án xử lý tài sản thế chấp tài sản đảm bảo : Quyền sử dụng đất tại thửa 163a, tở bản đồ 18 tại thôn X, xã Y, huyện Z, thành phố Hà Nội  theo GCNQSDĐ số BDD493789 do UBND huyện Z cấp ngày 21/4/2011 cho ông Nguyễn Xuân P; Quyền sử dụng đất tại thôn A, xã B,huyện C thành phố Hà Nội theo GCNQSDĐ số AI 286192 do UBND huyện C cấp ngày 20/5/2009 cho ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị H; Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 13, tở bản đồ số 19 tại Thôn P, xã C huyện T thành phố Hà Nội theo GCNQSDĐ số H01354 do UBND huyện T, thành phố Hà Nội cấp ngày 29/12/2006 cho ông Đỗ Văn T và bà Kiều Thị L.
Như vậy để đảm bảo cho khoản vay 3.946.686.375đ có 03 tài sản ở các quận, huyện khác nhau mà bản án không phân định rõ đối với từng tài sản đảm bảo cho khoản vay bao nhiêu. Mặc dù đã có nhiều văn bản đề nghị Toà án giải thích nhưng không nhận được trả lời, vụ việc rất khó giải quyết. Mặt khác, theo quy định vụ việc phải uỷ thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản, nhưng ngay tại bản án không phân định rõ từng tài sản đảm bảo cho khoản vay nên không thể uỷ thác theo quy định pháp luật và cũng không thể tổ chức thi hành được vì lý do thẩm quyền theo địa giới. Nếu trường hợp cả 3 tài sản trên địa bàn thuộc thẩm quyền cũng không thể thi hành bởi mỗi chủ sở hữu tài sản là khác nhau và tài sản bảo đảm những món vay khác nhau.
Kiến nghị : Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương xem xét và hướng dẫn các cơ quan liên quan để các bản án, quyết định của Toà án các cấp khi ra bản án, quyết định rõ ràng có tính thực tiễn tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án có hiệu quả.
2. Một vấn đề nữa liên quan đến bản án, quyết định của Toà án đó là lãi xuất. Đối với bản án, theo quy định thì lãi xuất được quy định là mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định đối với số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chưa thi hành án hầu hết các bản án đều tuyên như vậy. Tuy nhiên đối với Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thì hầu hết các quyết định công nhận đều chấp nhận cách tính lãi như hợp đồng tín dụng (cách tính lãi này là đối với khoản cho vay) nên lãi xuất rất cao, cao hơn nhiều so với quy định pháp luật về cách tính lãi được quy định tại Khoản 1, Điều 476 Bộ luật dân sự 2005 : “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Lãi suất cơ bản là là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Nhà Nước VN trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Ví dụ : Tại Quyết định công nhận thoả thuận của các đương sự số 30/2013/DSST ngày 23/12/2013 của Toà án nhân dân quận T có tuyên : “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án mà không thanh toán số tiền trên thì người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với khoản nợ gốc kể từ sau khi Quyết định này có hiệu lực pháp luật cho đến khi thanh toán hết nợ theo mức lãi suất mà hai bên thoả thuận tại Hợp đồng tín dụng”.Tại Hợp đồng tín dụng số LD11234000226 ngày 23/8/2011thì lãi xuất cho vay là 24%/năm. Tham chiếu quy định của Ngân hàng quy định lãi xuất cơ bản năm 2013 là 8%. Trong trường hợp này, Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự của Toà án có vi phạm bộ luật dân sự hay không bởi lãi xuất đã gấp nhiều lần theo quy định không quá 150%. Đây là quyết định có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án phải tổ chức thi hành, tuy nhiên khi thi hành có rất nhiều ý kiến về việc thi hành phần lãi xuất theo quyết định của Toà án và cũng không ít khiếu nại về nội dung này.
3.Trên thực tế, có thể do trình độ dân trí và trình độ pháp luật của người dân nên có nhiều trường hợp người dân đã ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà không hiểu hậu quả pháp lý đối với mình và gia đình. Dưới đây là một ví dụ: Ông A là chủ sở hữu nhà và đất tại phường NĐ, quận CG, TP. Hà Nội. Do quen biết và gia đình cần một khoản tiền để sử dụng trong gia đình nên đã vay ông B. Vì không hiểu biết và đang cần vốn làm ăn nên ông B đã làm các thủ tục chuyển nhượng nhà đất cho ông B, ông A và gia đình thực hiện các giao dịch do ông B hướng dẫn.Tuy đã chuyển nhượng nhà đất cho ông Trần B. nhưng gia đình ông A vẫn đang quản lý và sử dụng nhà và đất của ông B. Sau đó ông B dùng nhà và đất này thế chấp vay vốn ngân hàng. Do ông B. không trả được nợ nên Tòa án tuyên nếu ông B không trả được nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án  xử lý tài sản đã thế chấp của ông B để thu hồi nợ cho ngân hàng. Khi cơ quan thi hành án xác minh thì ông A và gia đình phản đối gay gắt. Như vậy, khi tiến hành xét xử, toà án đã không đưa ông A tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Với kiến nghị của cơ quan thi hành án, bản án đã bị huỷ vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.    
Thứ ba: khó khăn, vướng mắc do người phải thi hành án tạo ra
Trong quá trình thi hành án không chỉ Tổ chức tín dụng mà ngay cả Cơ quan thi hành án dân sự cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do người phải thi hành án cố tình chống đối, không tự nguyện thi hành án. Việc chống đối của người phải thi hành án thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không nhận quyết định thi hành án, cản trở việc cơ quan thi hành án tiến hành xác minh tài sản để thi hành án,cản trở việc kê biên tài sản để thi hành án…Khi kiểm tra, xác minh tài sản gặp sự chống đối quyết liệt của đương sự (kiên quyết không cho vào nhà đất, có những lời lẽ thiếu tôn trọng và nhiều hành vi khác cản trở…) là một khó khăn thực tế, thường xảy ra gây rất nhiều khó khăn cho chấp hành viên mà có ít giải pháp tháo gỡ nên việc thi hành án bị kéo dài. Hoặc như người phải thi hành án cố tình vắng mặt khỏi nơi cư trú, nơi đăng ký kinh doanh nên việc giao nhận các giấy tờ về thi hành án sẽ mất nhiều thời gian bởi cơ quan thi hành án phải tiến hành xác minh tại địa phương sau đó niêm yết hoặc thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng toàn bộ văn bản để tiến hành cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án.
Một vấn đề phát sinh trên thực tế là người bảo lãnh thiếu hợp tác. Hiện nay, các bản án kinh doanh thương mại người bảo lãnh chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số án kinh doanh thương mại. Thực tế có các biểu hiện : người bảo lãnh có sử dụng 1 phần tiền vay (thông thường là nhỏ so với tài sản bảo lãnh); người bảo lãnh do quan hệ quen biết hoặc họ hàng nên đứng ra bảo lãnh bằng tài sản của mình (không sử dụng tiền vay) nên khi tổ chức thi hành họ thiếu thiện chí hợp tác và họ cho rằng họ bị lừa đảo, thậm chí nhiều vụ việc họ chống đối quyết liệt, đe doạ sẽ có hành vi tiêu cực đối với bản thân và gia đình. Mặt khác, đối với người bảo lãnh, tài sản bảo lãnh để đảm bảo khoản vay chính là ngôi nhà duy nhất của họ trên thửa đất họ sống nhiều năm, thậm chí có nhiều thế hệ cùng sinh sống trên mảnh đất đó; mặc dù pháp luật thi hành án có quy định khi sử lý ngôi nhà duy nhất, bên được thi hành án hỗ trợ cho bên phải thi hành án nơi ở trong thời gian ít nhất 12 tháng nhưng nhiều vụ việc chưa được cấp uỷ, chính quyền địa phương ủng hộ bởi an sinh xã hội trên địa bàn sẽ rất phức tạp khi hết thời gian hỗ trợ 12 tháng theo quy định pháp luật. 
Đối với tài sản bảo lãnh, phần quyết định của Toà án thường tuyên: Trong trường hợp công ty X không trả khoản nợ trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án xử lý tài sản thế chấp là tài sản bảo đảm là Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 163a,tờ bản đồ số 18, tại địa chỉ …, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H01435, do UBND huyện Z cấp ngày 20/5/2009 cho ông Nguyễn văn A và bà Nguyễn Thị B theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng 2210/2011tại Văn phòng công chứng. Tuy nhiên, khi cơ quan thi hành án xác minh thì thấy mảnh đất đó có nhà xây kiên cố 3 tầng, theo quy định chấp hành viên tiến hành kê biên nhà và quyền sử dụng đất hiện trạng, nhưng bên phải thi hành án khiếu nại cho rằng chấp hành viên phải thực hiện theo đúng bản án (khi sử lý tài sản bảo lãnh chỉ sử lý quyền sử dụng đất), mặt khác khi thế chấp các bên (bên bảo lãnh và ngân hàng) ký hợp đồng tín dụng chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản bảo lãnh là quyền sử dụng đất mà không có các công trình xây dựng trên đất. Để giải quyết khiếu nại này không hề đơn giản và kéo dài thời gian thi hành án.
Thứ tư: Do công tác phối kết hợp giữa các cơ quan liên quan chưa thật đồng bộ và hiệu quả
Công tác thi hành án dân sự nói chung và công tác thi hành các bản án kinh doang thương mại nhằm thu hồi nợ cho ngân hàng nói riêng phụ thuộc rất nhiều công tác phối kết hợp để việc thực thi bản án nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật. Hầu hết các vụ việc thi hành án thu hồi nợ cho ngân hàng đều phải áp dụng các trình tự, thủ tục thi hành án từ khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, định giá, bán đấu giá và giao tài sản bán đấu giá thành cho người mua trúng đấu giá nên công tác phối kết hợp càng phải chặt chẽ, nhịp nhàng. Trong thời gian qua, công tác phối hợp trong thi hành án dân sự được các cấp các ngành đặc biệt quan tâm, hầu hết công tác phối hợp đã được quy định trong Luật thi hành án dân sự tại Chương VIII: Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự. Để vận hành tốt quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước chúng ta đã có các văn bản liên quan để hướng dẫn chỉ đạo và thực hiện như : Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế giữa Bộ tư pháp với Bộ công an. Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự  số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC       ngày 09/10/2013 của Bộ tư pháp; Bộ công an; Toà án nhân dân Tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Ngoài ra Bộ tư pháp đã ký các quy chế phối hợp trong thi hành án dân sự đối với Ngân hàng Nhà nước, với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Đây là những “điểm tựa” cơ bản để các cơ quan thi hành và các chấp hành viên vận dụng tạo điều kiện thuận lợi trong công tác thi hành án đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, trên thực tế, công tác phối kết hợp này ở từng lúc, từng nơi và những việc cụ thể chưa thật nhịp nhàng, việc trao đổi thông tin giữa chấp hành viên được giao giải quyết hồ sơ với cán bộ thu hồi nợ chưa kịp thời, thậm chí gây cản trở lẫn nhau dẫn đến làm chậm quá trình thu hồi nợ.
Mỗi năm, số lượng vụ việc nói chung và số vụ việc liên quan đến thi hành án thu hồi nợ cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước, một số địa bàn có hiện tượng tăng đột biến gấp 2-3 lần. Tính chất các vụ việc ngày càng phức tạp, đa dạng và giá trị mỗi vụ việc ngày càng lớn. Đây là áp lực lớn cho các cơ quan thi hành án, cho mỗi chấp hành viên. Trong khi mỗi vụ việc dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi khi giải quyết chấp hành viên phải hết sức thận trọng, áp dụng đúng các quy định pháp luật.
Qua thực tiễn chúng tôi nêu một số khó khăn vướng mắc khi thi hành bản án, quyết định của toà án liên quan đến các ngân hàng và tổ chức tín dụng để các đồng nghiệp tham khảo.
Phạm Quang Dũng
Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm

Các tin đã đưa ngày: