Từ lịch sử phát triển của lĩnh vực thi hành án dân sự(THADS) ở Việt Nam cũng cho thấy yêu cầu cải cách, đổi mới Hệ thống THADS cùng với việc kiện toàn, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước luôn là đòi hỏi được đặt ra trong các Văn kiện, Nghị quyết quan trọng của Đảng. Trải qua một chặng đường dài hình thành và phát triển, Hệ thống THADS không ngừng được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, bổ sung mới nhiều chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến mô hình tổ chức thi hành án nói chung, THADS nói riêng cần tiếp tục được nghiên cứu, làm sáng tỏ, ví dụ bản chất của THADS; ảnh hưởng qua lại và mối quan hệ tương tác giữa mô hình tổ chức thi hành án với quy trình, thủ tục thi hành án; địa vị pháp lý, vai trò của Chấp hành viên(CHV) và của Hệ thống THADS trong việc bảo đảm công lý và phát triển kinh tế; sự tương thích và khác biệt giữa Hệ thống THADS của Việt Nam với các mô hình THADS trên thế giới hiện nay; mô hình thi hành án dân sự (THADS) thực sự phù hợp và hiệu quả của Việt Nam trong tương lai là gì? v.v. Từ những trăn trở nêu trên, bài viết dưới đây tác giả sẽ trình bày khái quát lịch sử 75 hình thành và phát triển của Hệ thống THADS qua các thời kỳ và một vài suy nghĩ về việc tiếp tục kiện toàn, cải cách để xây dựng mô hình thi hành án thực sự hiệu quả ở Việt Nam trong tình hình mới.
Những bước chuyển giao nhiệm vụ, tổ chức bộ máy thi hành án dân sự qua các thời kỳ lịch sử
Nói về mối quan hệ giữa người làm công tác thi hành án với Thẩm phán và đặt trong mối liên hệ với Nhà nước và Pháp luật, Chủ tịch Hiệp hội Cán bộ Tư pháp Quốc tế, trong bài phát biểu mở đầu Hội nghị: “Hài hòa hóa thủ tục THADS nhằm thực thi công lý xuyên biên giới”, được tổ chức tại Washington, Mỹ năm 2006, đã nhấn mạnh: “Không có Nhà nước nào lại không có Pháp luật, không Pháp luật nào lại không có Thẩm phán, không có bản án nào lại không có cán bộ thi hành án”. Từ quan điểm này có thể suy rộng ra là khi Nhà nước và Pháp luật ra đời thì đồng thời với nó là bộ máy các cơ quan nhà nước được hình thành để thực thi pháp luật và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó có hệ thống cơ quan Tòa án và người thực hiện chức năng xét xử của Tòa án là Thẩm phán. Sản phẩm tất yếu của Thẩm phán là các BA, QĐ và đương nhiên BA, QĐ đó phải được tổ chức thi hành. Việc thi hành có thể do chính Thẩm phán đã ra BA, QĐ tổ chức thi hành hoặc do cơ quan, cá nhân khác có thể thuộc hoặc không thuộc hệ thống Tòa án tổ chức thi hành nhưng tất yếu công việc thi hành án đã xuất hiện đồng thời cùng với sự xuất hiện của các thiết chế Tòa án và Thẩm phán. Từ đó có thể suy ra rằng công việc thi hành án đã có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu cùng với lịch sử ra đời của các thiết chế Nhà nước và Pháp luật trong lịch sử loài người.
Nếu xét theo quan điểm đó thì công việc THADS ở Việt Nam cũng có thể nói là có lịch sử ra đời và xuất hiện từ hàng ngàn năm lịch sử cùng với các truyền thuyết về lịch sử hình thành của nước Việt Nam ta ngày nay. Mô hình tổ chức cơ quan THADS cũng như quy trình, thủ tục, vai trò và tính hiệu quả của nó trước năm 19451 sẽ tiếp tục là chủ đề cần được mở rộng nghiên cứu nhằm kế thừa những truyền thống pháp lý của dân tộc và những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực THADS đúng với quan điểm cải cách tư pháp đã được nêu tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về Hội nhập quốc tế. Từ sau ngày thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 - khởi đầu của một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đến nay thì lĩnh vực THADS đã có 75 năm hình thành và phát triển. Những nét chính về sự hình thành, chuyển giao nhiệm vụ và sự phát triển của tổ chức bộ máy THADS có thể khái quát qua những nội dung cơ bản sau đây:
-Bước chuyển giao lần 1: Từ Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại sang Thẩm phán huyện
Hình thức tổ chức thi hành án sơ khai ban đầu là Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại. Điều thứ 3 của Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản ấy sẽ tùy từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án. Ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì người đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh”.và khoản 3 Điều thứ ba của Sắc lệnh này quy định Ban Tư pháp xã có quyền: “Thi hành những mệnh lệnh của các thẩm phán cấp trên”.
Từ những quy định nêu trên có thể khẳng định rằng Ban Tư pháp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký trong các xã, thị xã hoặc khu phố và Thừa phát lại là chức danh tiền thân của ngạch CHV ngày nay, có nhiệm vụ tổ chức thi hành những mệnh lệnh của các thẩm phán cấp trên (nay gọi là BA, QĐ của Tòa án).
Đến năm 1950, trước những yêu cầu mới của chính quyền cách mạng, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, bước đầu tạo ra sự thay đổi về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động THADS. Theo quy định tại Điều 19 của Sắc lệnh này thì: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án Hộ, mà chính Tòa án huyện hoặc Tòa án trên đã tuyên”. Trên cơ sở đó, việc THADS trước đây do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện thì nay được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức THADS cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác THADS ngày càng được nâng cao.4
Như vậy, sau hơn 04 năm (từ tháng 01/1946 đến từ tháng 5/1950) cả nhiệm vụ THADS và vị trí tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ THADS đã có sự thay đổi theo hướng được nâng lên và đề cao vị thế của công tác THADS: từ nhiệm vụ của Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện; nhiệm vụ THADS ban đầu được tạm thời giao cho cấp xã đã chuyển giao cho đơn vị tư pháp cao hơn là cấp huyện (Tòa án huyện) thực hiện. Do đó, ngày 22/5/1950 được xem là mốc thời gian đánh dấu bước chuyển giao nhiệm vụ và tổ chức bộ máy cơ quan THADS lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, tính kể từ ngày đất nước dành độc lập (02/9/1945).
-Bước chuyển giao lần 2-từ Thẩm phán huyện kiêm nhiệm (xét xử và thi hành án) sang nhân viên chấp hành án
Từ tháng 5/1950 đến tháng 7/1960, theo quy định của Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Thẩm phán huyện vừa làm nhiệm xét xử của Thẩm phán vừa thực hiện nhiệm vụ tổ chức THADS. Đây là giai đoạn chưa có chức danh THADS riêng cũng như chưa hình thành tổ chức bộ máy chuyên môn trực thuộc Tòa án đảm nhiệm công tác thi hành án. Giai đoạn này kéo dài được hơn 10 năm thì nhiệm vụ thi hành án được chuyển giao cho nhân viên chấp hành án. Trên cơ sở Hiến Pháp năm 1959, năm 1960 Luật Tổ chức TAND được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1960và Chủ tịch nước ký ban hành ngày 26/7/1960, Điều 24 Luật Tổ chức TAND đã quy định: “Tại các TAND địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, về những khoản bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Trước đây, quy định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử vừa kiêm nhiệm công tác THADS, nhưng theo quy định mới này (kể từ ngày 26/7/1960), tại các Tòa án đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ THADS. Như vậy, mặc dù chưa hình thành đơn vị, tổ chức bộ máy riêng làm công tác THADS nhưng điểm nổi bật trong giai đoạn này với sự thông qua Luật Tổ chức TAND, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/7/1960(ngày Chủ tịch nước ký Lệnh số 19-LCT thông qua Luật), là mốc thời gian của bước chuyển giao nhiệm vụ lần 2, đánh dấu sự ra đời của một chức danh mới làm nhiệm vụ chuyên trách công tác THADS thay cho Thẩm phán kiêm nhiệm, đó là nhân viên chấp hành án - tiền thân của chức danh CHV sau này.Nhân viên chấp hành án được bố trí ở các TAND địa phương (bao gồm TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện và Tòa án ở các khu vực tự trị).Điểm tiến bộ nữa từ quy định trên đó là nhu cầu và yêu cầu của nhiệm vụ THADS ngày càng được nâng cao, nhân viên chấp hành án không chỉ được bố trí ở cấp huyện làm nhiệm vụ thi hành án thay cho Thẩm phán huyện nữa mà còn được bố trí ở cấp tỉnh (TAND cấp tỉnh). Trong hơn 12 năm này (7/1960-10/1972), nhân viên chấp hành án vẫn là chức danh trực thuộc sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Thẩm phán.
-Bước chuyển giao nhiệm vụ lần 3 - từ nhân viên chấp hành án sang Chấp hành viên và bước đầu hình thành cơ quan có chức năng quản lý, tổ chức THADS
Nhân viên chấp hành án đảm nhiệm công tác THADS trong hơn 12 năm, sau đó tên gọi nhân viên chấp hành án được thay bằng tên gọi CHV theo Quyết định số 186-TC ngày 13/10/1972 của Chánh án TANDTC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của CHV và Thông tư số 187-TC của TANDTC cùng ngày hướng dẫn thực hiện Quyết định số 186-TC nêu trên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời của chức danh CHV. Theo đó, chỉ khác nhau về tên gọi, còn về tổ chức bộ máy thì CHV vẫn được bố trí tại các Tòa án địa phương dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chánh án Tòa án để thực hiện chuyên trách việc thi hành án. Ngày 13/10/1972 trở thành thời điểm quan trọng đánh dấu sự ra đời của khái niệm “Chấp hành viên”(CHV). Đây là thời kỳ đất nước đang có chiến tranh, sự hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực của đời sống pháp luật nói chung, pháp luật về tổ chức bộ máy của hệ thống tòa án nói riêng còn bị hạn chế, chưa nói là khó có điều kiện thực hiện. Hơn nữa, khái niệm “CHV” cũng ra đời từ thuật ngữ “nhân viên chấp hành án” được quy định tại các văn bản trước đó. Do đó, có thể khẳng định rằng, thuật ngữ “CHV” được sử dụng từ đó đến nay có thể được hình thành từ trong nước theo truyền thống pháp lý Việt Nam mà chưa có sự nghiên cứu, chuyển hóa từ các thuật ngữ tương đương ở nước ngoài.
Ngày 14/11/1974,TANDTC tiếp tục ban hành Quyết định số 53/QĐ-CB thành lập Phòng Chỉ đạo thi hành án, Phòng này hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án TANDTC, giúp Chánh án TANDTC nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của CHV tại TAND các cấp; xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án. Các cơ quan của nhà nước và TAND TC đã ban hành các quy định khá cụ thể về nguyên tắc, trình tự, thủ tục về THADS và được áp dụng thống nhất trong cả nước. TAND TC và TAND cấp tỉnh đã tổ chức, bồi dưỡng cho CHV và nhân viên THA về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường đầu tư trang thiết bị phương tiện phục vụ công tác cho CHV và nhân viên THA, đồng thời với việc ra đời chức danh CHV và sự phát triển đội ngũ CHV trong ngành TAND các cấp đã góp phần bảo đảm lợi ích của nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp pháp của công dân được tăng cường và pháp chế XHCN được bảo vệ. Cho thấy công tác thi hành án ngày càng được Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm, củng cố và phát triển lên tầm cao mới.
Vụ Quản lý Tòa án là một đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đã được thành lập theo Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng. Các cơ quan quản lý Tòa án ở địa phương cũng đã được thành lập theo Thông tư số 08-TT ngày 06/01/1982 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 143-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định này, Phòng Quản lý Tòa án trực thuộc Sở Tư pháp quản lý công tác chấp hành án; Ban Tư pháp huyện chấp hành các án dân sự và hôn nhân gia đình do Tòa án huyện xét xử hoặc Tòa án tỉnh ủy nhiệm; Ban Tư pháp xã tham gia đôn đốc việc thi hành các bản án dân sự và hôn nhân gia đình thuộc phạm vi xã do Tòa án huyện và Ban Tư pháp huyện chuyển về.
Ngày 01/01/1982, TANDTC đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án trong phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, theo Thông tư liên ngành số 472 giữa Bộ Tư pháp và TANDTC ngày 18/7/1982 về quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt thì tại các TAND cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Tòa án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; Tại các Tòa án cấp huyện có CHV hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Kể từ ngày Pháp lệnh THADS 1989 có hiệu lực (01/01/1990) thì chỉ có CHV là người được giao nhiệm vụ thi hành án, trước đó ngoài CHV còn có cán bộ làm công tác thi hành án. Tuy nhiên, theo Quy chế CHV ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/03/1990 của Hội đồng Bộ trưởng thì CHV vẫn được bố trí trong biên chế của Tòa án địa phương.
-Bước chuyển giao lần 4 - chuyển giao nhiệm vụ thi hành án và tổ chức bộ máy từ TAND các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ
Ngày 06/10/1992, Quốc hội khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác THADS từ TAND các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ đã đánh dấu bước chuyển giao mang tính lịch sử của Ngành THADS sau 33 năm trực thuộc sự quản lý của Tòa án (7/1960-7/1993). Theo quy định của Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác THADS, cơ quan THADS và CHV thì kể từ ngày Nghị định có hiệu lực (ngày 02/06/1993), Hệ thống tổ chức THADS bao gồm cơ quan quản lý công tác THADS và cơ quan THADS được hình thành từ trung ương xuống địa phương. Theo đó, cơ quan quản lý THADS bao gồm Cục Quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp.Cơ quan THADS bao gồm Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp và Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp 5 Bên cạnh công sức, trí tuệ to lớn của tập thể Lãnh đạo Bộ và tập thể Lãnh đạo Cục Quản lý THADS và công chức, người lao động trong toàn ngành thì Người Lãnh đạo đầu tiên và lâu năm trong ngành với rất nhiều cống hiến, công trình nghiên cứu có giá trị, mang tính quyết định cho sự ra đời, phát triển của Cục Quản lý THADS (tiền thân của Tổng cục THADS ngày nay) là Cục trưởng Cục Quản lý THADS Hoàng Thọ Khiêm 6Căn cứ theo Nghị quyết Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ nhất ngày 06/10/1992; Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác THADS; Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 liên ngành giữa Bộ Tư pháp, TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc bàn giao công tác THADS và Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác THADS, cơ quan THADS và CHV thì kể từ ngày 01/7/1993 công tác THADS đã được chuyển giao hoàn toàn từ TAND các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Theo đó, Chánh án TAND cấp tỉnh sẽ bàn giao cho Giám đốc Sở Tư pháp quản lý công tác THADS trong địa bàn của tỉnh; Chánh án TAND cấp huyện bàn giao cho Trưởng phòng Tư pháp hoặc người được Giám đốc Sở Tư pháp uỷ quyền (đối với những nơi chưa có Phòng Tư pháp) quản lý công tác THADS trên địa bàn huyện.
Như vậy, từ tháng 5/1950 đến 01/7/1993, THADS ở Việt Nam đã có 43 năm hoặc đồng thời là Thẩm phán hoặc được đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ và về tổ chức của ngành Tòa án mà trực tiếp là Chánh án (trong đó có 10 năm người tổ chức THADS đồng thời là Thẩm phán - Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người tổ chức THADS và 33 năm đơn vị thi hành án trực thuộc sự quản lý của Tòa án).
Giai đoạn từ sau năm 1993 đến nay, thời kỳ mà hệ thống THADS đã chuyển sang các cơ quan thuộc Chính phủ thì tên gọi cơ quan thi hành án cũng như mức độ phụ thuộc về mặt tổ chức, về mặt chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ giữa cơ quan THADS với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã có sự điều chỉnh theo hướng tăng cường sự độc lập về mặt tổ chức cán bộ và hướng dẫn chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên trực thuộc theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương, tuy nhiên, nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ vẫn được duy trì, cụ thể:
- Từ tháng 7 năm 1993 đến trước khi có Pháp lệnh THADS 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh THADS 2004 về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS thì Hệ thống tổ chức THADS gồm Cục Quản lý thi hành án thuộc Bộ Tư pháp; Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp và Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp. Ở giai đoạn này, các cơ quan tư pháp địa phương giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương và giúp cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương. Các cơ quan THADS địa phương chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan THADS cấp trên, cụ thể Cục Quản lý THADS thì quản lý nghiệp vụ công tác THADS, Phòng THADS quản lý nghiệp vụ công tác thi hành án của Đội THADS.
- Giai đoạn từ sau khi có Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ thì Cục Quản lý THADS đã được đổi tên thành Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp.7 Đối với cơ quan THADS địa phương thì Phòng Thi hành án trước đây trực thuộc Sở Tư pháp, đã tách ra đồng thời đổi tên thành THADS cấp tỉnh, Đội THADS trước đây trực thuộc Phòng Tư pháp, đã tách ra đồng thời đổi tên thành THADS cấp huyện. Như vậy, ở giai đoạn này, các cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập. THADS cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. THADS cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của THADS cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/05/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế ủy quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, THADS huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh thì các cơ quan THADS địa phương vẫn chịu sự quản lý về mặt tổ chức cán bộ của cơ quan tư pháp địa phương, theo sự ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
-Bước chuyển giao lần 5 - chuyển giao hoàn toàn về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy cơ quan THADS theo hướng độc lập hơn về tổ chức bộ máy và chuyên môn hóa chuyên môn nghiệp vụ theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương
Giai đoạn kể từ ngày 01/7/2009, thời điểm có hiệu lực của Luật THADS 2008 đến nay, Hệ thống tổ chức THADS vẫn thuộc các cơ quan thuộc Chính phủ quản lý, tuy nhiên Hệ thống THADS được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Đặc biệt, giai đoạn này đánh dấu bước quan trọng trong hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan THADS và trong công tác tổ chức cán bộ, đó là kể từ ngày 01/07/2009, theo quy định thì Giám đốc Sở Tư pháp bàn giao công tác tổ chức cán bộ sang cho Trưởng THADS cấp tỉnh(đánh dấu mốc thời gian quan trọng của bước chuyển giao lần 5). Sau khi Nghị định số 74/NĐ-CP ngày 09/09/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS được ban hành và có hiệu lực thì các cơ quan quản lý, cơ quan THADS đã được đổi tên cho phù hợp với quy định mới của Luật THADS. Theo đó, ở Trung ương, Tổng cục THADS là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về THADS theo quy định của pháp luật; cấp tỉnh có Cục THADS là cơ quan trực thuộc Tổng cục THADS và cấp huyện có Chi cục THADS là cơ quan trực thuộc Cục THADS.8Đây là một trong những sự kiện long trọng đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Ngành Tư pháp nói chung và Ngành THADS nói riêng.
Như vậy, Hệ thống tổ chức THADS có được vị trí như ngày hôm nay là cả một quá trình dài trải nghiệm của bao thế hệ với biết bao nhiêu thăng trầm. Từ 04 năm sơ khai là Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại, trải qua giai đoạn Thẩm phán huyện kiêm nhiệm 10 năm vừa xét xử vừa thi hành án, sau đó là giai đoạn trực thuộc Tòa án suốt 33 năm, tiếp theo 16 năm cơ quan THADS địa phương đặt dưới sự quản lý trực tiếp hoặc ở mức độ nhất định của cơ quan tư pháp địa phương và 12 năm tiếp theo cho đến ngày nay, kể từ thời điểm Luật THADS năm 2008 có hiệu lực (01/7/2009). Chặng đường 75 năm với năm bước chuyển giao lớn trong công tác THADS, trong đó ở bước chuyển giao lần thứ nhất là kết quả tất yếu vì trong bối cảnh nước nhà mới được thành lập, còn non trẻ do vậy việc kế thừa và giao cho Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại làm nhiệm vụ thi hành án chỉ có tính chất tạm thời, sau một thời gian ngắn ổn định tình hình việc thi hành án đã được chuyển giao cho Thẩm phán huyện thực hiện. Trên thế giới mặc dù vẫn có mô hình thi hành án theo đó Thẩm phán vừa xét xử vừa thi hành bản án do mình ban hành, tuy nhiên không phải phổ biến. Ví dụ, ở Tây Ban Nha thì Thẩm phán là người xét xử cũng đồng thời là người thi hành bản án do mình ban hành. Bốn bước chuyển giao tiếp theo cũng là đòi hỏi tất yếu, khách quan và đặc biệt quan trọng mang tính chất quyết định đến hệ thống tổ chức bộ máy và hoạt động của THADS, trong đó bước chuyển giao lần thứ hai là rất cần thiết vì có rất nhiều hạn chế xuất phát từ mô hình Thẩm phán vừa xét xử vừa thi hành án. Ở Cộng hòa Liên bang Đức sau khi ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 1950) thì việc Thẩm phán vừa xét xử vừa thi hành án cũng chấm dứt sự tồn tại của nó. Ở bước chuyển giao lần thứ tư, đánh dấu sự tách bạch về mặt tổ chức bộ máy giữa hệ thống cơ quan làm công tác THADS với hệ thống cơ quan xét xử. Nhận thức của Đảng ta lúc đó về yêu cầu đổi mới công tác THADS vẫn còn mang tính thời sự và phù hợp với xu thế cải cách thi hành án trên thế giới. Ví dụ, nói về vai trò của công tác THADS, bà Francoise Andrieux, Tổng thư ký Hiệp hội Cán bộ Tư pháp Quốc tế đã khẳng định: “Công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được thi hành. Nguyên tắc bảo đảm an toàn của Luật pháp và bảo đảm hiệu lực điều chỉnh của nó trên thực tế trong một nhà nước thượng tôn pháp luật đã chỉ ra rằng cần có sự phân định giữa quyền lực của Thẩm phán với tư cách là người thực hiện việc xét xử với quyền lực của Cán bộ Thi hành án, với tư cách là người bảo đảm thực hiện Quyết định của Tòa án”. Và việc chuyển giao lần thứ năm cũng là ở thời điểm chín muồi và cần thiết, bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả phù hợp với chiến lược cải cách hành chính trong công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Hệ thống THADS và yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp đối với công tác chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ THADS cần được chuyên môn hóa cao.
TS. Nguyễn Văn Nghĩa, Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
2.Tổng cục THADS, Thi hành án dân sự 70 năm xây dựng và trưởng thành, NXB. Tư pháp, 2016, tr. 247-248.
3.Điều thứ 75 (Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức chính quyền nhân dân): Về tư pháp, Ban thường vụ (Chủ tịch, Phó chủ tịch và thư ký) có quyền:
4.Tổng cục THADS, tlđd, tr. 14.
5.Quyết định số 473/QĐ-TC ngày 20/7/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Thông tư liên bộ số 12-TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương.
6.Ông Hoàng Thọ Khiêm, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Quản lý THADS (từ 1993 đến 1996); Quyền Cục trưởng Cục Quản lý THADS (từ 1996 đến 1999); Cục trưởng Cục Quản lý THADS (từ 1999 đến 2005), xem Tổng cục THADS, tlđd, tr. 270
.7.Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp.
8.Quyết định số 2999/QĐ-BTP ngày 06/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp công bố việc thành lập Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp và sau này là Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp.