Thực tiễn thi hành Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự và một số vướng mắc, bất cập (Phần I)

12/12/2024


1. Kết quả đạt được của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Luật TNBTCNN) được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Theo đó, nhằm hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN năm 2017, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN; đồng thời, xây dựng Thông tư số 04/2018/TT-BTP ngày 17/5/2018 ban hành một số biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà nước, Thông tư 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước và Thông tư 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường…
Có thể nói, với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; xác định rõ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường; các thiệt hại được bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người có lỗi gây ra thiệt hại...Từ đó, tạo cơ sở cho hoạt động công quyền ngày càng hiệu quả hơn, chất lượng dịch vụ công được nâng lên, ý thức chấp hành pháp luật của người thi hành công vụ vì thế mà được nâng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế.
2. Một số vướng mắc, bất cập trong việc thi hành Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì thực tiễn thi hành Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS) vẫn còn một số vướng mắc, bất cập, cụ thể:
2.1. Một số vướng mắc, bất cập trong việc thi hành Luật TNBTCNN
Thứ nhất, về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước (BTNN) trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS): Điều 21 Luật TNBTCNN quy định phạm vi trách nhiệm BTNN trong hoạt động THADS là quá rộng, bao trùm toàn bộ các hành vi thi hành công vụ trong hoạt động THADS (từ việc ra hoặc không ra các quyết định THADS trái pháp luật đến quá trình tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định thi hành án trái pháp luật, như: hành vi không kịp thời thông báo, tống đạt các văn bản liên quan đến việc thi hành án, xác minh, kê biên, xử lý tài sản không đúng quy định của pháp luật...) đều có thể dẫn đến nguy cơ phát sinh trách nhiệm BTNN trong hoạt động THADS.
 Thứ hai, về cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS: Điều 39 Luật TNBTCNN quy định về cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS có thể là cơ quan THADS trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây ra thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo đó, sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người bị thiệt hại có quyền lựa chọn một trong các cơ quan trên để giải quyết yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan THADS trong thực tiễn thời gian qua chưa cao, vì đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện giải quyết yêu cầu bồi thường đều là kiêm nhiệm, không có chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn giải quyết yêu cầu bồi thường còn hạn chế, trong khi các vụ việc phát sinh yêu cầu BTNN thường là những vụ việc phức tạp, từ quá trình tổ chức thi hành án cho đến quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhiều vụ việc đã kéo dài nhiều năm, đòi hỏi phải đánh giá lại toàn bộ vụ việc để xác định hành vi sai phạm, mức độ sai phạm và xác định lỗi của người gây thiệt hại nên việc kiểm tra, xác minh lại hồ sơ thi hành án, xác minh thiệt hại thực tế đã phát sinh là rất khó khăn; Mặt khác, quy định cơ quan THADS vừa là cơ quan giải quyết bồi thường vừa là cơ quan có trách nhiệm bồi thường nên dẫn đến tâm lý e ngại, không tin tưởng vào kết quả giải quyết bồi thường của cơ quan THADS. Vì vậy, hầu hết các vụ việc cơ quan THADS đã thụ lý, giải quyết nhưng người yêu cầu bồi thường không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan THADS và tiếp tục khởi kiện ra Tòa yêu cầu giải quyết lại vụ việc, dẫn đến việc giải quyết yêu cầu bồi thường bị kéo dài ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Thứ ba, Luật TNBTCNN chưa có quy định cụ thể đối với một số trường hợp có thể kết thúc giải quyết yêu cầu BTNN, dẫn đến vụ việc bị kéo dài, như:
(1) Quy định về việc đình chỉ giải quyết bồi thường trong trường hợp người yêu cầu rút đơn yêu cầu bồi thường sau khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý, xác minh thiệt hại;
(2) Quy định về việc kết thúc giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp thương lượng không thành và thời hạn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường đã hết;
(3) Quy định về kết thúc giải quyết bồi thường nhà nước đối với trường hợp sau khi có bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, người có lỗi đã chủ động khắc phục hậu quả, thực hiện đầy đủ trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại theo đúng nội dung bản án, quyết định giải quyết bồi thường mà không lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí theo quy định tại Điều 62 của Luật TNBTCNN.
Thứ tư, Luật TNBTCNN mới chỉ quy định về việc cấp kinh phí để thực hiện trách nhiệm BTNN đối với bản án, quyết định của Tòa án đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục của Luật TNBTCNN; chưa có quy định về việc cấp kinh phí để thực hiện trách nhiệm BTNN đối với bản án, quyết định của Tòa án đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. Do đó, dẫn đến tình trạng cùng là vụ việc người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại dẫn đến nhà nước phải thực hiện trách nhiệm BTNN theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng trình tự, thủ tục cấp kinh phí để thực hiện nghĩa vụ bồi thường lại được thực hiện theo hai cơ chế: Cơ chế cấp kinh phí bồi thường nhà nước (theo Luật TNBTCNN) và cơ chế cấp kinh phí bảo đảm tài chính (theo Luật THADS; Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS và Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10 tháng 6 năm 2016 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án). Cụ thể: Đối với bản án, quá trình xét xử Tòa án đã áp dụng các quy định của Luật TNBTCNN để giải quyết và xác định thiệt hại được bồi thường, thì việc lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí để thi hành bản án đó được thực hiện theo quy định tại Điều 62 của Luật TNBTCNN; Đối với bản án, quá trình xét xử Tòa án đã áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết, thì việc lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí để thi hành bản án đó được thực hiện theo quy định tại Điều 65 của Luật THADS, Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 42 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC.
Thứ năm, một số quy định của Luật TNBTCNN không phù hợp thực tiễn, như:
(1) Tại khoản 2 Điều 22 Luật TNBTCNN[1] quy định về tính giá trị thiệt hại được bồi thường chưa đảm bảo bù đắp các thiệt hại thực tế cho người bị thiệt hại, nhất là đối với một số trường hợp quá trình giải quyết kéo dài mà thiệt hại có sự thay đổi giá trị lớn tại thời điểm giải quyết dẫn đến hầu hết các vụ việc người yêu cầu bồi thường không đồng ý với kết quả giải quyết bồi thường của cơ quan có thẩm quyền và khiếu kiện vượt cấp, kéo dài;
(2) Quy định về thời hạn xác minh thiệt hại tại khoản 2 Điều 45 Luật TNBTCNN[2];
(3) Quy định về thời hạn thương lượng tại khoản 1 Điều 46 Luật TNBTCNN[3];
(4) Quy định về thời hạn lập, thẩm định hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường nhà nước tại Điều 62 Luật TNBTCNN[4]… là quá ngắn, không phù hợp với thực tiễn để cơ quan giải quyết bồi thường thụ lý, giải quyết yêu cầu bồi thường, nhất là những vụ việc có nhiều người bị thiệt hại trong cùng một vụ việc hoặc vụ việc xảy ra đã lâu, phải đánh giá lại toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án để xác định có vi phạm hay không, mức độ vi phạm cũng như các thiệt hại thực tế cần phải xác minh làm rõ…
Thứ sáu, một số quy định của Luật TNBTCNN chưa thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan, như:
(1) Tại khoản 6 Điều 62 Luật TNBTCNN[5] quy định về việc xử lý khoản tiền đã được ngân sách nhà nước cấp, người bị thiệt hại đã được báo gọi nhưng không đến làm việc, nhận tiền bồi thường thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại làm thủ tục sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên, nếu người bị thiệt hại không nhận tiền bồi thường nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì cơ quan THADS có thể căn cứ theo quy định tại Điều 91 của Luật THADS[6] để kê biên thực hiện cho nghĩa vụ khác của người được bồi thường hay không;
(2) Quy định về việc gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường: Tại khoản 1 Điều 62 Luật TNBTCNN[7] quy định cơ quan THADS có trách nhiệm bồi thường gửi thẳng hồ sơ đề nghị cấp kinh phí đến Bộ Tài chính mà không qua Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp (đơn vị dự toán cấp 1) là chưa đảm bảo nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 8 Điều 29 của Luật Ngân sách nhà nước[8];
(3) Quy định về việc quyết toán kinh phí bồi thường: Khoản 1 Điều 63 Luật TNBTCNN quy định: “sau khi chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại có trách nhiệm gửi giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc chi trả tiền bồi thường cho cơ quan tài chính đã cấp phát kinh phí để quyết toán theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 65 Luật NSNN[9], thì cơ quan giải quyết bồi thường phải quyết toán kinh phí này, sau đó tổng hợp báo cáo đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt, gửi cơ quan tài chính để thẩm định quyết toán năm (cơ quan tài chính không quyết toán từng vụ việc của cơ quan giải quyết bồi thường).
2. 2. Một số vướng mắc, bất cập trong việc thi hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 ( Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN  (Nghị định số 68/2018/NĐ-CP).
Thứ nhất, về việc xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP[10] quy định về việc xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật  TNBTCNN[11] là không thể thực hiện được việc xác minh thiệt hại nếu thị trường cấp huyện trong phạm vi tỉnh, thành phố không có tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật.
Thứ hai, về việc thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại: Luật TNBTCNN cũng như Nghị định số 68/2018/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể trường hợp người yêu cầu bồi thường đã nộp hồ sơ yêu cầu bồi thường đến một trong các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước quy định tại Điều 73 của Luật nhưng tại thời điểm cơ quan được xác định là cơ quan giải quyết bồi thường nhận hồ sơ mà thời hiệu yêu cầu bồi thường đã hết thì hồ sơ đó có được thụ lý giải quyết hay không
Thứ ba, về việc yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật[12]: Khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 68/2018/NĐ-CP quy định người giải quyết bồi thường có thể yêu cầu người yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc xác minh thiệt hại. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức có liên quan không phối hợp cung cấp tài liệu, chứng cứ hoặc mặc dù có tài liệu, chứng cứ nhưng không có cơ sở pháp lý để cung cấp cho cơ quan giải quyết bồi thường, từ đó gây khó khăn cho hoạt động giải quyết bồi thường của cơ quan giải quyết bồi thường.
Thứ tư, về mức hoàn trả chưa tương xứng với mức độ lỗi của người thi hành công vụ và chưa đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cụ thể: Tại khoản 2, khoản 3 Điều 26 Nghị định 68/2018/NĐ-CP quy định về mức hoàn trả đối với số tiền Nhà nước đã bồi thường cao hơn và thấp hơn 10 tháng lương của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là chưa đảm bảo công bằng giữa những người có lỗi ( người có lỗi dẫn đến nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhiều tỷ đồng cũng chỉ phải thực hiện trách nhiệm hoàn trả nhiều hơn không đáng kể so với người có lỗi dẫn đến nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước dưới 100 triệu đồng)...
 

[1] Khoản 2 Điều 22 Luật TNBTCNN:” giá trị thiệt hại được tính tại thời điểm thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường”
[2] Khoản 2 Điều 45 Luật TNBTCNN[2] quy định: “Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ, người giải quyết bồi thường phải hoàn thành việc xác minh thiệt hại. Trường hợp vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh thiệt hại là 30 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ…”;
[3] Khoản 1 Điều 46 Luật TNBTCNN[3] quy định: “ Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày hoàn thành báo cáo xác minh thiệt hại, cơ quan giải quyết bồi thường phải tiến hành thương lượng việc bồi thường. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tiến hành thương lượng, việc thương lượng phải được hoàn thành. Trường hợp vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn thương lượng tối đa là 15 ngày…”
[4] Điều 62 Luật TNBTCNN quy định: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến cơ quan tài chính có thẩm quyền” và “ trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 62 của Luật, cơ quan tài chính phải hoàn thành việc cấp phát kinh phí bồi thường cho cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại”.
[5] Khoản 6 Điều 62 Luật TNBTCNN quy định: “Hết thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được thông báo quy định tại khoản 5 Điều này mà người yêu cầu bồi thường không nhận tiền bồi thường thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại làm thủ tục sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật”
[6] Điều 91 của Luật THADS quy định: “trường hợp xác định người thứ ba đang giữ tài sản của người phải thi hành án, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết định khác thì Chấp hành viên ra quyết định kê biên tài sản đó để thi hành án”.
[7] Khoản 1 Điều 62 Luật TNBTCNN quy định “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến cơ quan tài chính có thẩm quyền”
[8] Khoản 8 Điều 29 Luật NSNN quy định: “8. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương tổ chức thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong lĩnh vực tài chính - ngân sách và chịu trách nhiệm về những sai phạm thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật”.
[9] Khoản 4 Điều 65 Luật NSNN quy định: “4. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán ngân sách nhà nước được giao và theo mục lục ngân sách nhà nước”.
[10] Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP quy định: Thị trường quy định tại Khoản 1 Điều 23 của Luật là thị trường trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là thị trường cấp huyện) nơi phát sinh thiệt hại thực tế. Trường hợp thị trường cấp huyện nơi phát sinh thiệt hại thực tế không có tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và chất lượng thì thị trường là thị trường cấp huyện gần nhất với nơi phát sinh thiệt hại thực tế trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
[11] Khoản 1 Điều 23 của Luật  TNBTCNN quy định: “1. Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật, tác dụng và mức độ hao mòn của tài sản trên thị trường tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này. Thời điểm để xác định hiện trạng tài sản làm căn cứ tính mức bồi thường là thời điểm thiệt hại xảy ra”.