1. Quá trình tổ chức thi hành án
Trong quá trình tổ chức thi hành, ngày 7/7/2010 chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản của ông M, bà L để thi hành án gồm các phần đất sau:
1. Diện tích 300m2 thửa 201, tờ bản đồ số 16, giấy CNQSDĐ số 003510/QSDĐ/144/QĐ-UB ngày cấp 14/5/2004.
2. Diện tích 4.945m2 thửa 127, tờ bản đồ số 175, giấy CNQSDĐ số H01868 ngày cấp 14/5/2004.
3. Diện tích 10.000m2 thửa 57, tờ bản đồ số 126, giấy CNQSDĐ số H01872 ngày cấp 12/5/2008.
4. Diện tích 300m2 thửa 253, tờ bản đồ số 161, giấy CNQSDĐ số H01889 ngày cấp 12/5/2008
5. Diện tích 7.200m2 thửa 87, tờ bản đồ số 127, giấy CNQSDĐ số H01868 ngày cấp 9/5/2006.
Sau đó chấp hành viên thực hiện việc thẩm định giá, bán đấu giá tài sản trên của ông M, bà L theo qui định để thi hành án.
Khi bà Nguyễn Thị Thanh T mua trúng giá các loại tài sản trên. Chi cục Thi hành án huyện T đã làm thủ tục giao đất cho bà T để chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, đối với phần đất diện tích 10.000m2 thửa 57, tờ bản đồ số 126, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01872 ngày cấp 12/5/2008 cho bà L chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu được cho bà T vì xác định hiện trạng không đủ diện tích.
Chi cục Thi hành án huyện T đã có Công văn số 521/THA ngày 17/10/2011 v/v hỗ trợ công tác thi hành án để xác lập hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất cho bà T (đối với thửa số 57, tờ bản đồ số 126, diện tích 10.000m2) gửi Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh N.
Ngày 19/10/2011 Uỷ ban nhân dân xã H có Công văn số 91/UBND v/v yêu cầu xác định lại diện tích đất. Do hiện trạng hiện nay các thửa đất không còn ranh giới đất (theo sơ đổ lưới địa chính năm 1997) căn cứ theo Sổ mục kê của Địa chính xã H thì bà L, ông M có đăng ký và được cấp 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 03 thửa đất gồm: thửa số 57, Tờ bản đồ số 126, diện tích 10.000m2 ; thửa 87 Tờ bản đồ 125, diện tích 26.671m2; thửa 27 Tờ bản đồ số 126 diện tích là 10.338m2. Tổng diện tích đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lợi là 47.009m2 các thửa đất này liền kề nhau và không còn ranh đất. Qua kiểm tra thực tế 03 thửa đất trên chỉ còn 39.001m2 (so với diện tích đã cấp giấy còn thiếu khoản 8.000m2).
Hiện nay thì thửa 87 Tờ bản đồ 125, diện tích 26.671m2; thửa 27 Tờ bản đồ số 126 diện tích là 10.338m2 của bà L đã chuyển nhượng cho ông Trần Quốc V và ông V đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn A (đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Còn thửa 57 Tờ bản đồ số 126, diện tích 10.000m2 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã kê biên bán đấu giá, thực tế theo hiện trạng đất hiện nay chỉ còn là 2.000m2.
Ngày 10/8/2012 Cục Thi hành án dân sự tỉnh N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T có cuộc họp với Uỷ ban nhân dân huyện T để xác định lại tính pháp lý phần đất diện tích 10.000m2 thuộc thửa 57, Tờ bản đồ số 126 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01872 ngày 12/5/2008 cho bà Nguyễn Thị L. Qua các ý kiến của Ủy ban nhân dân xã H về hiện trạng của thửa đất số 57, Tờ bản đồ số 126 chỉ còn là 2.000m2 phần đất này chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã kê biên, bán đấu giá diện tích là 10.00m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01872 ngày 12/5/2008 cấp cho bà Nguyễn Thị L. Ủy ban nhân dân huyện T đã chỉ đạo cho Ủy ban nhân dân xã H làm báo cáo để Ủy ban nhân dân huyện T có văn bản chính thức trả lời cho Cục Thi hành án dân sự N.
Về việc này, ngày 23/04/2012 Cục Thi hành án dân sự tỉnh N có Công văn số 598/CTHA gửi Lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện T về việc xác định lại hiện trạng sử dụng đất của thửa đất số 57, Tờ bản đồ số 126, diện tích 10.000m2.
Phúc đáp Công văn số 598/CTHA nêu trên của Cục Thi hành án dân sự tỉnh N, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T cho rằng:
Thứ nhất, cơ quan thi hành án tiến hành kê biên thửa đất số 57, Tờ bản đồ số 126, diện tích 10.000m2 chưa đảm bảo chặt chẽ theo quy định pháp luật, chi kê biên trên hồ sơ giấy tờ chứ không đo đạc, cắm mốc thực tế, không có chủ sử dụng đất liền kề ký vào biên bản kê biên.
Thứ hai, đối với diện tích đất của hộ liền kề là ông T và ông V, sau đó ông Vũ lại chuyển nhượng cho ông A, bà T phải đo đạc lại cả khu vực đất này sẽ làm cho tình hình sử dụng đất khu vực này thêm phức tạp, e rằng không giải quyết được. Đồng thời, Nhà nước sẽ khó có cơ sở pháp lý để giải quyết nếu ông T, ông V, ông A, bà T khiếu nại.
Trong quá trình xử lý kê biên, thẩm định giá tài sản của ông M, bà L để thi hành cho các bản án trên phát sinh thêm Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh N, án tuyên ông M bà L phải trả cho bà Nguyễn Thị Thanh T số tiền là 2.226.250.000đ và ưu tiên thanh tóan cho bà T khi phát mãi tài sản. Trong quá trình tổ chức thi hành án, tài sản của ông M, bà L đã được phát mãi với giá là 1.934.000.000đ bà Nguyễn Thị Thanh T là người mua trúng giá (nếu ưu tiên thanh toán cho bà T thì tài sản không còn để thi hành cho các bản án trước và các đương sự trên đã có đơn khiếu nại).
Để có căn cứ thi hành, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh N và được phúc đáp theo Công văn số 27/HD-THA. Theo đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đã có Văn bản kiến nghị số 431/CCTHA ngày 26/7/2011 gửi Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và đã được Chánh Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao phúc đáp tại Công văn số 603/TANDTC ngày 4/8/2011 có nội dung: “... Tòa án cấp phúc thẩm lại áp dụng khoản 3 Điều 325 Bộ luật Dân sự dành quyền ưu tiên thanh toán cho bà T khi phát mãi tài sản của ông M, bà L là không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy sai sót này không cần thiết phải kháng nghị hủy bản án phúc thẩm mà có thể điều chỉnh cho phù hợp.... ”. Căn cứ Công văn trên Chi cục thi hành án dân sự huyện T có Công văn số 483/CCTHA ngày 12/9/2011 gửi Tòa án nhân dân tỉnh N đề nghị điều chỉnh bản án cho phù hợp. Tuy vậy, Tòa án nhân dân tỉnh N có Công văn số 234/CVTA ngày 19/9/2011 phúc đáp là không có quyền điều chỉnh bản án. Do có ý kiến giải thích trái ngược nhau giữa các cấp tòa án cho nên số tiền phát mãi của ông M, bà L là 1.934.000.000đ Chi cục Thi hành án huyện T chưa chi trả cho các đương sự.
2. Quá trình giải quyết khiếu nại
Bà Nguyễn Thị Thanh T làm đơn khiếu nại việc cơ quan Thi hành án huyện T không tiến hành các thủ tục để giao tài sản cho bà vì bà là người mua trúng giá tài sản và không chi tiền thi hành án theo Bản án số 02/2011/DSPT. Chi cục Thi hành án huyện T ban hành Quyết định số 15/QĐ-GQKN ngày 9/11/2011 có nội dung là chấp nhận một phần đơn khiếu nại, Chi cục Thi hành án huyện T tiếp tục phối hợp với Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T để hoàn tất thủ tục cấp Giấy chứng nhân quyền sử dụng đất cho bà T. Không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại trên bà T tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh N.
Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh N đã ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 366/QĐ-GQKNTHA ngày 16/1/2012 có nội dung chấp nhận khiếu nại của bà T đối với Quyết định số 15/QĐ-GQKN ngày 9/11/2011 của Chi cục Thi hành án huyện T; không chấp nhận việc việc bà T đề nghị chi trả tiền theo Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Bà Thúy tiếp tục làm đơn Khiếu nại việc không chấp hành pháp luật của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T về việc không giao tài sản đấu giá theo quy định với các lý do: Bà là người được thi hành án và là người trúng đấu giá trong việc mua tài sản bán đấu giá. Sau khi trúng giá bà đã nộp tiền mua tài sản và các thủ tục theo yêu cầu của Chi cục Thi hành án huyện T. Tuy nhiên, ngày 23/3/2012 bà được Chi cục Thi hành án huyện T trả lời không có đất trên thực địa đối với phần đất có diện tích 10.000m2 thửa 57, tờ bản đồ 126 theo GCNQSDĐ số H01872 cấp ngày 12/6/2008 và đề nghị trả lại tiền (theo tỷ lệ). Bà không đồng ý vì: phần đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Chi cục Thi hành án huyện T kê biên và thông báo bán đấu giá. Như vậy, chứng minh là phần đất này có trên thực tế; đối với các thửa đất khác (ngoài phần đất trên) đã mua trúng giá và đã giao đất nhưng đến nay cũng chưa hoàn thành các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà. Do đó, bà T yêu cầu phải thực hiện ngay và phải bồi thường thiệt hại trong thời gian do bà không được thực hiện quyền sử dụng đất. Đồng thời, bà T còn khiếu nại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T không chi tiền cho bà theo Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh N.
3. Đề xuất giải quyết khiếu nại
Về việc bà T khiếu nại chấp hành viên Chi cục Thi hành án huyện T chậm hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua trúng giá tài sản:
Trong quá trình tổ chức thi hành, chấp hành viên đã không xác định hiện trạng thực tế thửa đất mà tiến hành kê biên theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên khi giao đất cho người mua trúng giá không đủ diện tích để giao dẫn đến việc phải xác minh, đo đạc lại hiện trạng đất, kéo dài thời gian hoàn thành thủ tục cho người mua trúng giá làm cho đương sự búc xúc. Do đó, Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh N đã ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 366/QĐ-GQKNTHA ngày 16/1/2012 có nội dung chấp nhận một phần đơn khiếu nại của bà T đối với đối với nội dung khiếu nại Chi cục Thi hành án huyện T chậm hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua trúng giá tài sản là đúng quy định pháp luật.
Tuy nhiên, Quyết định giải Quyết khiếu nại số 366/QĐ-GQKNTHA ngày 16/1/2012 lại không nêu việc bồi thường, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra, cụ thể trong trường hợp này là hành vi của chấp hành viên không xác định hiện trạng thực tế thửa đất, dẫn đến việc ra quyết định kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá, giao tài sản cho người mua trúng đấu giá không đúng diện tích đất thực tế, gây thiệt hại cho người phải thi hành án và người mua trúng đấu giái tài sản. Người phải thi hành án phải chịu chi phí thẩm định giá, bán đấu giá đối với cả diện tích đất không có trên thực tế và người mua trúng đấu giá phải trả tiền thuế, tiền mua diện tích đất không có trên thực tế.
Do đó, đối với nội dung khiếu nại trên cần phải bổ sung nội dung việc bồi thường, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra.
Về việc bà T khiếu nại Chi cục Thi hành án huyện T không chi tiền cho bà theo Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh N
Tại Công văn số 603/TANDTC ngày 4/8/2011 của Chánh án Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao gửi Chi cục Thi hành án huyện T có nội dung: “... ông M bà L còn phải có trách nhiệm thi hành khoản tiền nợ của nhiều bản án khác đã có hiệu lực pháp luật ... Do đó, không thể chỉ ưu tiên thanh toán cho khoản nợ của bà T khi phát mãi tài sản của ông M, bà L...”. đồng thời Công văn lại có nội dung: “... xét thấy sai sót này không cần thiết phải kháng nghị hủy bản án phúc thẩm mà có thể điều chỉnh cho phù hợp.... ”. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tỉnh N lại trả lời Chi cục thi hành án dân sự huyện T là không có quyền điều chỉnh bản án. Do đó, không có cơ sở để ưu tiên thanh toán cho bà T khi phát mãi tài sản theo Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh N.
Về việc này, còn có nhiều quan điểm khác, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: căn cứ Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao trả lời “không cần thiết phải kháng nghị hủy bản án phúc thẩm”, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh lại trả lời là không có quyền điều chỉnh bản án, chấp hành viên căn cứ Bản án số 02/2011/DSPT ngày 5/01/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh có hiệu lực tổ chức thi hành ưu tiên thanh toán cho khoản nợ của bà Thúy theo quyết định của Bản án số 02/2011/DSPT.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Căn cứ Công văn số 603/TANDTC ngày 4/8/2011 của Chánh án Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao Chi cục thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành chi trả tiền cho bà T theo thứ tự ưu tiên thanh toán vì Công văn số 603/TANDTC đã khẳng định: ““... ông M, bà L còn phải có trách nhiệm thi hành khoản tiền nợ của nhiều bản án khác đã có hiệu lực pháp luật ... Do đó, không thể chỉ ưu tiên thanh toán cho khoản nợ của bà T khi phát mãi tài sản của ông M, bà L ... Tòa án cấp phúc thẩm lại áp dụng khoản 3 Điều 325 Bộ Luật dân sự dành quyền ưu tiên thanh toán cho bà T khi phát mãi tài sản của ông M, bà L là không đúng quy định của pháp luật ...”.
Để giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thanh T kịp thời, đảm bảo đúng quy định pháp luật, tránh đương sự khiếu nại bức xúc, phức tạp, tồn đọng kéo dài, đồng thời đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự chúng tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi, tranh luận của các đồng nghiệp và độc giả./.
Nguyễn Thị Thu Hằng
Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo