Điều 127 Luật Thi hành án dân sự hiện hành quy định: "Chấp hành viên xử lý theo quy định tại các điều 98, 99, 100 và 101 của Luật này đối với tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án”. Như vậy, theo Điều 127 Luật Thi hành án dân sự thì chấp hành viên xử lý theo quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự đối với tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án; nhưng Điều 98 Luật Thi hành án dân sự lại quy định:
"Điều 98. Định giá tài sản kê biên
1. Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá;
b) Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;
c) Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.
...”.
Như vậy, Điều 98 Luật Thi hành án dân sự quy định về định giá tài sản kê biên chỉ quy định đối với trường hợp "ngay khi kê biên tài sản”, hoặc "Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản” thì đương sự được quyền thỏa thuận về giá tài sản hoặc chấp hành viên ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá để định giá tài sản; trong khi đó tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án được quy định tại Điều 127 là tài sản không phải do chấp hành viên cơ quan Thi hành án kê biên trong quá trình tổ chức thi hành án mà do cơ quan điều tra kê biên trong giai đoạn điều tra và khi xét xử Tòa án tuyên tiếp tục kê biên để bảo đảm thi hành án. Do đó không thể thực hiện được việc định giá tài sản này theo quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự, vì thời hạn kê biên tài sản không đảm bảo quy định tại Điều 98 Luật thi hành án dân sự là "ngay khi kê biên tài sản”, hoặc "Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản”.
Vì vậy, để có thể áp dụng Điều 98 Luật thi hành án dân sự nhằm định giá tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án thì cần sửa đổi, bổ sung Điều 127 Luật Thi hành án dân sự như: Bổ sung cụm từ "Việc xác định ngày kê biên tài sản để định giá tài sản theo Điều 98 Luật Thi hành án dân sự đối với trường hợp này là ngày hết thời gian tự nguyện thi hành án được quy định tại Quyết định thi hành án” sau quy định tại Điều 127 Luật thi hành án dân sự. Như vậy, sau khi bổ sung Điều 127 Luật Thi hành án dân sự quy định như sau:
Điều 127. Xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án
"Chấp hành viên xử lý theo quy định tại các điều 98, 99, 100 và 101 của Luật này đối với tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Việc xác định ngày kê biên tài sản để định giá tài sản theo Điều 98 Luật Thi hành án dân sự đối với trường hợp này là ngày hết thời gian tự nguyện thi hành án được quy định tại Quyết định thi hành án”.
Phạm Huy Ân