Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong tình hình hiện nay

07/11/2014
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta, Thi hành án dân sự là một trong những lĩnh vực hoạt động Tư pháp được chú trọng và là một nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên ở nước ta được ban hành đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường và hoàn thiện tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự. Với đường lối đổi mới, cải cách bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng, Hiến pháp năm 1992 và một số đạo luật như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 đã đặt ra những nguyên tắc mang tính nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp, trong đó có cải cách về thi hành án dân sự. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 06/12/1992, Quốc hội khoá IX thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Ngày 02/6/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 266/TTg về triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, đến hết tháng 6/1993 thì việc thành lập các cơ quan Thi hành án dân sự và bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ đã được thực hiện xong, đồng thời trong năm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự 1993, thay đổi cơ bản Pháp lệnh 1989 như về thẩm quyền ra các Quyết định về thi hành án dân sự.


Đến ngày 14/01/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, trên cơ sở kế thừa từ Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, bên cạnh đó Chính phủ cũng đã ban hành hai Nghị định liên quan đến công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004, theo đó Cơ quan thi hành án dân sự được quyền kê biên, phát mãi quyền sử dụng đất nông nghiệp, quy định này về cơ bản đã tháo gỡ những vướng mắc mà Pháp lệnh 1993 chưa quy định cụ thể trong quá trình tổ chức thi hành án phải xử lý tài sản liên quan đến quyền sử dụng đất nông nghiệp để bảo đảm thi hành án, tạo tiền đề cho cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ.

Trong quá suốt quá trình hình thành và phát triển, vai trò, vị trí công tác thi hành án dân sự ngày một nâng lên cả về số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp của đất nước và cụ thể hóa các bản án, quyết định của Tòa án theo nguyên tắc Hiến định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan Tư pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự, kỹ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan Tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Toà án, đổi mới tổ chức và hoạt động cuả Viện Kiểm sát, cơ quan Điều tra, cơ quan Thi hành án dân sự và cơ quan Bổ trợ Tư pháp.

Do vậy để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh Thi hành án năm 2004.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực ngày 01/7/2009, là một đạo luật quan trọng, có phạm vi điều chỉnh toàn diện hoạt động thi hành án dân sự, bao gồm từ nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ quan Thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thi hành án dân sự, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan Thi hành án dân sự, chấp hành viên thực hiện đúng quy định tại Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 tháng 12/2001 sửa đổi, bổ sung.

Luật Thi hành án dân sự ra đời và việc Chính phủ thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện là để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng quản lý và tổ chức hoạt động thi hành án dân sự trong cả nước. Đây cũng là sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với sự lớn mạnh, trưởng thành của cơ quan Thi hành án dân sự trong thời gian qua.

Cùng với việc tổ chức quán triệt, nâng cao nhận thức của toàn cơ quan Thi hành án dân sự về tổ chức và hoạt động theo quy định mới các giải pháp phát huy sức mạnh tổng hợp cả bên trong và bên ngoài cơ quan được khẩn trương triển khai thực hiện. Công tác ổn định tổ chức Đảng, đoàn thể các cơ quan Thi hành án được kiện toàn, trong đó bổ sung cán bộ Lãnh đạo Thi hành án dân sự thuộc diện quản lý của cấp ủy địa phương.

Để tạo điều kiện cho tổ chức hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự nhanh chóng tổ chức thực hiện theo quy định mới, đã tham mưu cho Chính phủ cũng như phối hợp với các cơ quan có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, chính vì vậy hoạt động thi hành án đã thu được nhiều kết quả cao, chất lượng công tác được nâng lên rõ rệt, hoạt động thi hành án dân sự thực sự đã mang lại hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước.

Mặc dù vị thế của cơ quan Thi hành án dân sự đã được nâng lên, tuy nhiên, quá trình tổ chức thi hành án dân sự cũng còn có những khó khăn nhất định: Hệ thống pháp luật còn những điểm bất cập, mâu thuẫn, chưa phù hợp thực tiễn; người được thi hành án chưa có điều kiện thi hành; tài sản kê biên không phát mãi được do không có người đăng ký mua; có nơi chất lượng cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, năng lực đội ngũ chấp hành viên vẫn còn hạn chế…. Đồng thời, công tác thi hành án dân sự là một lĩnh vực nhạy cảm, quá trình tác nghiệp đều liên quan trực tiếp đến tiền, tài sản…của tổ chức, cá nhân để buộc thực hiện những nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án, do đó có những trường hợp luôn cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành án làm cho quá trình tổ chức thi hành gặp rất nhiều khó khăn, kết quả hoạt động của Cơ quan Thi hành án dân sự không đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, để khắc phục những khó khăn, bất cập đòi hỏi phải có những giải pháp trong việc phối hợp với các cơ quan hữu quan, nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất trong công tác thi hành án dân sự. Trong khuôn khổ bài viết, tôi xin nêu lên: Công tác phối hợp về thi hành án dân sự và đưa ra các kiến nghị, giải pháp để công tác phối hợp đạt chất lượng góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở địa phương.

Phần I: Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan Thi hành án dân sự, tình hình phối hợp trong công tác thi hành án dân sự tại địa phương

1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan thi hành án dân sự

Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự đã thu được nhiều kết quả quan trọng về mặt tổ chức bộ máy. Các cơ quan Thi hành án dân sự trên toàn quốc đã từng bước được kiện toàn. Từ Đội Thi hành án, Phòng Thi hành án (theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993); đến Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004) và đến Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là tổ chức bộ máy thi hành án dân sự theo hệ thống dọc, gồm Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

Nhằm hoàn thiện, bổ sung Nghị quyết số 08-NQ/TW, trong năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành 02 Nghị quyết quan trọng, đó là Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nhiều nội dung về cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Quá trình thực hiện, về cơ bản những nội dung quan trọng của hai Nghị quyết này trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã lần lượt được thể chế hóa và đi vào thực tiễn, cụ thể:

Một là: Công tác thi hành án dân sự luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX năm 2004 đã nêu: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là công tác thi hành án dân sự...”, đồng thời trong 02 Nghị quyết, Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã định hướng rất rõ về mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp, xác định vị trí, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, điều kiện làm việc cho các cơ quan tư pháp. Đặc biệt năm 2008, chủ trương đó đã trở thành hiện thực, năm 2008 Quốc hội đã thông qua Luật Thi hành án dân sự với nhiều nội dung cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Hai là: Hệ thống tổ chức các cơ quan Thi hành án dân sự về cơ bản đã được kiện toàn sau khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, do đó đã có những thuận lợi nhất định khi ở vào vị thế mới với nhiều nhiệm vụ mới được bổ sung theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, đồng thời đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn.

Ba là: Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được thành lập phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và tính đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự

Bốn là: Những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm lãnh đạo, chấp hành viên theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 nên khi chuyển đổi sang ngạch mới về cơ bản những đối tượng này đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định.

Năm là: Luật Thi hành án dân sự đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn.

Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định đầy đủ, cụ thể, dễ thực hiện.

Với nhiều quy định được kế thừa có chọn lọc từ Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đặc biệt là các quy định mới về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, Luật Thi hành án đã tạo điều kiện cho hoạt động thi hành án được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Nhiều quy định mới thể hiện sự phù hợp trong nghiệp vụ thi hành án dân sự.

Sáu là: Phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân, tổ chức được nâng lên.

Từ việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự, các cơ quan, tổ chức đã chủ động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình tốt hơn mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự.

Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân, tổ chức được nâng lên.

Bảy là: Tổ chức, biên chế của cơ quan Thi hành án dân sự được kiện toàn; cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện, điều kiện làm việc của cơ quan Thi hành án dân sự được từng bước được cải thiện.

Bên cạnh những thuận lợi thì trong điều kiện cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và thực tiễn hoạt động, hệ thống bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, đó là:

Một là: Một số chủ trương của cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhìn chung chưa được thể chế hóa kịp thời.

Hai là: Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã cơ bản giải quyết những khó khăn, vướng mắc mà Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 không điều chỉnh được, nhưng sau gần 05 năm thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế hoặc do yêu cầu thực tiễn cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, như: Quy định về định giá tài sản kê biên; quy định về thẩm định giá tài sản kê biên; quy định về xác minh tài sản; quy định về thời hạn xét miễn, giảm thi hành án dân sự.v.v.

Tình trạng mâu thuẫn giữa Luật Thi hành án dân sự với các Luật khác về một số lĩnh vực như: Tài chính, Ngân hàng, Đất đai.v.v. dẫn đến sự không đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện nay, như: Thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản là nhà ở, chuyển quyền sử dụng đất giữa Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai và Luật Nhà ở...

Ba là: Cơ chế quản lý mới của cơ quan Thi hành án dân sự về cơ bản là thuận lợi, tuy nhiên ở một vài nơi do buông lỏng công tác quản lý dẫn tới tình trạng cán bộ sai phạm bị kỷ luật và vi phạm pháp luật đến mức bị khởi tố.

Bốn là: Với cương vị mới, Lãnh đạo cơ quan Thi hành án dân sự phải phối hợp chặt chẽ hơn với các cấp, các Ngành, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương. Điều này đòi hỏi lãnh đạo cơ quan Thi hành án dân sự phải là người nhạy bén, đủ tầm, đủ năng lực quản lý, lãnh đạo.

Chức năng, thẩm quyền của chấp hành viên còn hạn chế, chưa tạo uy tín, vị thế cao cho chấp hành viên nói riêng, cơ quan thi hành án dân sự nói chung.

Năm là: Các Phòng chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện mới chỉ được kiện toàn một bước, thiếu biên chế, thiếu các chức danh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tình trạng quá tải về công việc của chấp hành viên tại các địa bàn thành phố, thị xã chưa được khắc phục.

Quy định của Luật Thi hành án dân sự thiếu sự bảo đảm an toàn pháp lý cho chấp hành viên như Thẩm phán, Điều tra viên, Kiểm sát viên.

Một số vụ việc cơ quan Thi hành án dân sự đang giải quyết phát hiện đương sự có tài sản nhà, đất, nhưng đương sự xuất trình hợp đồng mua bán, chuyển nhượng hoặc cho tặng nhưng các bên không thực hiện đầy đủ thủ tục pháp luật quy định, chỉ lập hợp đồng giữa hai bên cùng ký. Xác định đủ điều kiện kê biên cơ quan Thi hành án đã lập kế hoạch cưỡng chế kê biên tài sản nói trên, đương sự đã khởi kiện tranh chấp, cơ quan Thi hành án dân sự đã có văn bản thông báo cho Tòa án, nhưng khi giải quyết tòa án đã tuyên cho các đương sự tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho tặng tài sản.

Chế độ, chính sách đối với lãnh đạo, chấp hành viên, công chức cơ quan Thi hành án dân sự, nhất là đối với lãnh đạo, chấp hành viên, công chức Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chưa được điều chỉnh kịp thời cho tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao, chỗ ở, đời sống, thu nhập của cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, chưa thu hút cán bộ vào công tác trong cơ quan Thi hành án dân sự.

Trụ sở làm việc chật hẹp, trang thiết bị làm việc, kinh phí hoạt động còn thiếu thốn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản tại một số đơn vị còn chưa tốt, hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyển dụng công chức vào cơ quan Thi hành án dân sự còn chậm, việc bổ nhiệm các chức danh chấp hành viên, thẩm tra viên, còn hạn chế.

Tình trạng thiếu nguồn tuyển dụng ở nhiều cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa chưa được khắc phục triệt để.

Sáu là: Trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn hạn chế, một số tiêu chuẩn về trình độ chưa đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Bảy là: Do là quy định mới nên trong quá trình hướng dẫn, triển khai còn gặp khó khăn, vướng mắc, như việc thi tuyển, xếp vào ngạch Chấp hành viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp.

Tám là: Công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về thi hành án dân sự chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy, số người dân biết về Luật Thi hành án dân sự còn hạn chế, thậm chí nhiều cán bộ cơ quan nhà nước có liên quan đến công tác thi hành án dân sự cũng không biết đến sự ra đời của Luật Thi hành án dân sự.

Có thể nói, trong những năm qua công tác tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, gây được lòng tin của của nhân dân, vị thế của cơ quan Thi hành án dân sự nói chung, của chấp hành viên nói riêng được nâng lên rõ rệt.

Mặc dù vậy, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, cơ quan thi hành án dân sự cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế, xây dựng củng cố lực lượng, tăng cường hiệu quả công tác chuyên môn nghiệp vụ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao cho.

2. Sơ lược về Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm

a) Đặc điểm của Chi cục

Tháng 06/1993, Đội Thi hành án thị xã Phan Rang - Tháp Chàm tách ra từ bộ phận Thi hành án của Tòa án nhân dân thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Ngày 01/7/2004 đổi tên gọi thành Thi hành án dân sự thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Đến tháng 11/2009 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm được thành lập theo Quyết định số 2970/QĐ-BTP ngày 06/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

Hiện nay, biên chế Chi cục Thi hành án dân sự thành phố hiện có là 18/18 người. Trình độ chuyên môn: 15/18 công chức có trình độ Cử nhân Luật (chiếm 83%) và 02 công chức có trình độ Cử nhân Kế toán - tài chính; 01 công chức có trình độ Trung cấp Văn thư - lưu trữ (hiện nay đang học lớp Đại học Luật – hệ vừa học vừa làm), 03/18 công chức được bồi dưỡng ngạch chuyên viên Quản lý hành chính nhà nước (chiếm 16%).

Chức danh lãnh đạo quản lý có Chi cục trưởng, 01 Phó Chi cục trưởng; chức danh pháp lý có 07 Chấp hành viên sơ cấp, 01 thẩm tra viên; công chức khác có 02 Thư ký thi hành án, 05 chuyên viên, 02 Kế toán và 01 Văn thư - thủ quỹ. Trình độ trung cấp Lý luận chính trị có 05 công chức. Theo quy định, hiện nay Chi cục còn thiếu một chức danh Phó Chi cục trưởng.

Về công tác Đảng sinh hoạt ghép với Chi bộ Phòng Tư pháp thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, số lượng Đảng viên của Chi cục có 10/18 công chức (có 01 Đảng viên dự bị).

b) Tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác thi hành án dân sự

Là đơn vị thủ phủ của tỉnh Ninh Thuận, vì vậy trong những năm qua, hàng năm Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm thụ lý trung bình gần 2.000 việc, chiếm 50% của toàn tỉnh, kết quả thực hiện nhiệm vụ của Chi cục ảnh hưởng rất lớn đến kết quả chung của toàn tỉnh.

Xác định việc hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ của ngành cấp trên giao là rất khó khăn và đặc biệt từ năm 2013 đến nay, cơ quan thi hành án dân sự thực hiện Nghị quyết số 37 của Quốc hội, với những chỉ tiêu hết sức nặng nề nhưng cũng là vinh dự khi được Quốc hội tin tưởng giao nhiệm vụ.

Nhằm hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ hàng năm giao cho Chi cục, ngay từ đầu năm, tập thể Lãnh đạo Chi cục đã bàn bạc trên tinh thần dân chủ, thống nhất, hoạch định những kế hoạch phù hợp cho từng cá nhân, công chức thực hiện nhiệm vụ với quyết tâm cao, đưa tỷ lệ hoàn thành nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước. Đồng thời, trên tinh thần các văn bản chỉ đạo, điều hành của ngành cấp trên, Lãnh đạo Chi cục đã ban hành Quyết định giao chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự hàng năm cho chấp hành viên.

Căn cứ vào Quyết định giao chỉ tiêu, trên cơ sở Kế hoạch công tác năm của đơn vị, Lãnh đạo Chi cục đã yêu cầu cán bộ công chức trong Chi cục và đặc biệt là đội ngũ chấp hành viên lập kế hoạch công tác năm gắn liền với các chỉ tiêu được giao nhằm tạo sự chủ động và nâng cao vai trò nòng cốt của chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án, tích cực giải quyết xử lý hồ sơ tồn đọng kéo dài nhiều năm, cương quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những vụ việc có điều kiện nhưng đương sự không tự nguyện thi hành, lập báo cáo kịp thời, đầy đủ và số liệu phản ánh trung thực, chính xác.

Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án luôn có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ với các cơ quan hữu quan, Ủy ban nhân dân xã, phường trên địa bàn thành phố.

Ngoài ra, hàng năm Chi cục đã thực hiện việc thành lập Đoàn kiểm tra để tự kiểm tra nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, qua đó kịp thời khắc phục những thiếu sót, ngăn ngừa sai phạm, hành vi cố tính kéo dài việc thi hành án của chấp hành viên.

Do hàng năm Chi cục đều lập Kế hoạch công tác thi hành án và được triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả, đồng thời với quyết tâm cao của công chức trong đơn vị, chủ động bố trí sắp xếp công việc hợp lý, khoa học, gắn công tác tuyên truyền giáo dục thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, cộng với sự cương quyết tổ chức cưỡng chế những trường hợp có điều kiện nhưng cố tình chây ỳ không tự nguyện thi hành án, vì vậy công tác thi hành án chuyển biến tích cực, hiệu quả, chất lượng công việc ngày một nâng lên, không có công chức vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án, kết quả thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ năm sau tăng cao hơn năm trước và liên tục được ngành cấp trên ghi nhận, khen thưởng Tập thể lao động xuất sắc.

3. Tình hình phối hợp trong công tác thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm

Trong những năm gần đây, công tác thi hành án dân sự ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Quốc hội và các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, hàng loạt Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, địa phương được ban hành nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cũng như củng cố, kiện toàn bộ máy thi hành án dân sự, giải quyết cơ bản những bất cập, hạn chế trong công tác thi hành án dân sự, qua đó vai trò, vị trí của cơ quan Thi hành án được nâng lên, là tiền đề tạo điều kiện trong việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan Thi hành án được chuyển biến tích cực, nhiều địa phương, Ban, Ngành tích cực hỗ trợ cho cơ quan Thi hành án thực hiện nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, trong quá trình phối hợp xác minh, cưỡng chế kê biên cũng còn một vài cơ quan, đơn vị có lúc chưa thể hiện hết tinh thần trách nhiệm trong việc phối kết hợp, trả lời kết quả xác minh chậm và sơ sài không đúng trọng tâm yêu cầu của cơ quan Thi hành án, cán bộ công chức của cơ quan hữu quan khi tham gia cưỡng chế, kê biên chưa thật sự nghiêm túc về thời gian theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án.

a) Công tác phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân

Xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự tại đơn vị đều có sự tham gia của Viện Kiểm sát cùng cấp, từ khi ra quyết định thi hành án cho đến khi kết thúc việc thi hành án. Với sự thống nhất giữa lãnh đạo của hai đơn vị, trong quá trình tổ chức thi hành đối với những vụ việc phức tạp có khả năng ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội tại địa phương, những vụ việc tiến hành cưỡng chế thi hành án, thì chấp hành viên cần chuyển hồ sơ để Viện Kiểm sát nghiên cứu, trao đổi và thống nhất phương án xử lý vụ việc, từ đó làm hạn chế đến mức thấp nhất việc khiếu nại, tránh xãy ra trường hợp kháng nghị khi cơ quan Thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế.

Bên cạnh đó, để bảo đảm tính thống nhất về việc rà soát, kiểm tra, đối chiếu số liệu, vào cuối mỗi tháng đơn vị đều lập danh sách hồ sơ thi hành án đã giải quyết xong để chuyển cho Viện Kiểm sát cùng cấp. Do có sự phối hợp chặt chẽ nên công tác xét miễn, giảm, tiêu hủy tang tài vật luôn được thực hiện tốt.

Định kỳ hàng năm, Viện Kiểm sát nhân dân đều lập Đoàn kiểm sát hoạt động công tác thi hành án dân sự tại đơn vị. Nhìn chung, trong những năm qua tình hình chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án dân sự tại Chi cục được thực hiện tốt, không có sai phạm nghiêm trọng dẫn đến việc Viện Kiểm sát ban hành quyết định kháng nghị các quyết định về thi hành án của đơn vị.

b) Công tác phối hợp với Tòa án nhân dân

Việc chuyển giao bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án sang cho cơ quan Thi hành án được thực hiện kịp thời, đúng theo quy định pháp luật, có lập danh sách ký nhận nhằm bảo đảm việc ra quyết định đúng thời hạn, đồng thời nhằm tránh trường hợp bản án, quyết định chuyển thiếu hoặc chuyển trùng nhiều lần.

Đối với những bản án, quyết định tuyên chưa rõ ràng, trước khi yêu cầu Tòa án giải thích, cơ quan Thi hành án tiến hành trao đổi trực tiếp nhằm làm rõ vấn đề. Trong trường hợp không đi đến thống nhất, đơn vị mới ban hành văn bản yêu cầu Tòa án giải thích. Trong những năm qua, khi cơ quan Thi hành án có văn bản yêu cầu, Tòa án đã kịp thời giải thích những điểm chưa rõ nhằm đưa bản án ra thi hành kịp thời. Khi cơ quan Thi hành án lập hồ sơ xét miễn, giảm, Tòa án đã ra quyết định miễn, giảm bảo đảm thời gian đúng quy định và không có trường hợp nào Tòa án không chấp nhận miễn, giảm theo đề nghị của Chi cục.

c) Công tác phối hợp với cơ quan Công an

Việc phối kết hợp với cơ quan Công an cùng cấp được thực hiện có hiệu quả, quá trình chuyển tang, tài vật được thực hiện đúng quy định và để thuận tiện trong việc chuyển giao tang, tài vật, Lãnh đạo hai cơ quan đã có sự thống nhất cụ thể về thời gian trong ngày để cơ quan Thi hành án tiếp nhận tang, tài vật.

Đối với các vụ việc cưỡng chế, đều có sự bàn bạc kỹ lưỡng, phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện việc cưỡng chế nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc chống người thi hành công vụ, bảo đảm an toàn cho thành viên Hội đồng cưỡng chế và tránh xãy ra điểm nóng tại địa phương.

Mặc dù, trong thời gian gần đây tình hình phối hợp với Trại giam trong quá trình tổ chức thi hành án đã được thực hiện thuận lợi hơn, tuy nhiên do quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ nên vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tống đạt các quyết định thi hành án cho người đang chấp hành án phạt tù. Vì thời điểm cơ quan Thi hành án thụ lý ra quyết định thi hành án thì chưa biết được người phải thi hành án đang chấp hành tại Trại giam nào, đến khi Trại giam gửi thông báo thì cơ quan Thi hành án mới xác định được nơi chấp hành án để thực hiện việc tống đạt, như vậy sẽ dẫn đến tình trạng tống đạt quyết định thi hành án chậm thời gian theo quy định của pháp luật.

d) Công tác phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, phường

Trong công tác thi hành án dân sự, vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là rất quan trọng, gần như xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi hành án, như phối hợp tống đạt, niêm yết, vận động thuyết phục, xác minh, cưỡng chế thi hành án..v..v... Vì vậy, cơ quan Thi hành án luôn đề cao vai trò của Ủy ban nhân dân cấp xã và chủ động phối hợp đồng bộ, chặt chẽ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong quá trình tổ chức thi hành án, như: Xây dựng lịch xác minh hàng tuần gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã trước vài ngày để địa phương bố trí người phối hợp, những vụ việc phức tạp cần vận động nhiều lần thì trao đổi trước với Lãnh đạo Ủy ban, Đảng ủy để đua ra phương án vận động hiệu quả nhất....Nhìn chung, trong những năm qua do có sự phối hợp chặt chẽ nên không có trường hợp địa phương từ chối tham gia trong công tác thi hành án.

e) Tình hình hoạt động Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự

Theo Nghị quyết ngày 6/10/1992 của Quốc hội Khóa IX về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân sang Chính phủ, năm 1993 các địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác thi hành án dân sự để chỉ đạo việc bàn giao và chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương. Tại Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 “Về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự”, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: “Để tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án cấp tỉnh, cấp huyện, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban để chỉ đạo công tác thi hành án tại địa phương”.

Ngày 22/3/2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 96/2002/QĐ-BTP ban hành “Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo công tác thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện”, theo đó quy định Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự có chức năng “Tham mưu và giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo công tác thi hành án dân sự; tổ chức phối hợp các cơ quan, đơn vị hữu quan với cơ quan thi hành án tại địa phương”. Tại Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 “Về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự”, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo “Ban Chỉ đạo Thi hành án các cấp làm tốt công tác tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và cấp trên tăng cường sự chỉ đạo phối hợp trong công tác thi hành án dân sự”.

Trên cơ sở các văn bản pháp luật nêu trên, tại địa phương đã thành lập và thường xuyên kiện toàn Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự. Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự hoạt động hiệu quả, góp phần không nhỏ vào việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Tuy nhiên, chưa thực sự chú trọng đến hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự.

Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết về việc thi hành Luật này. Tại Điều 173 và Điều 174 Luật Thi hành án dân sự, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong công tác thi hành án dân sự, theo đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có 06 loại nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có 02 loại nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng là: Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn và giúp Ủy ban nhân dân chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh.

Ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự”. Tại Điều 13 quy định Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự để tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp. Nghị định này cũng quy định Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự.

Như vậy, Ban Chỉ đạo trong công tác thi hành án dân sự đã được thành lập từ năm 1993 và hiện nay Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự vẫn đang hoạt động, đã góp phần rất lớn cho công tác thi hành án dân sự đạt hiệu quả.

f) Công tác phối hợp với các Ban, Ngành cùng cấp, tổ chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội

Tại Chi cục, nhìn chung việc phối hợp với các Ban, Ngành trong quá trình xác minh, cưỡng chế được thực hiện có hiệu quả, luôn có sự trao đổi thông tin kịp thời giữa lãnh đạo các cơ quan nhằm tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc trong quá trình phối kết hợp, trong việc cung cấp thông tin tài sản của người phải thi hành án..v..v, qua đó đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác thi hành án.

Tuy nhiên, có đôi lúc việc cung cấp thông tin về nhà và quyền sử dụng đất chưa được kịp thời, chấp hành viên phải đôn đốc nhiều lần mới có kết quả. Nguyên nhân là do công tác lưu trữ trước đây bằng phương pháp thủ công và sau khi có chủ trương thì chưa được cập nhật vào máy nên cần phải có thời gian để tra cứu và cung cấp cho cơ quan Thi hành án.

Khi chấp hành viên có yêu cầu cung cấp số dư tài khoản, khấu trừ tiền trong tài khoản, khấu trừ lương để bảo đảm thi hành án, thì bảo hiểm xã hội, các tổ chức tín dụng đều thực hiện kịp thời, không có trường hợp nào từ chối cung cấp thông tin hoặc khấu trừ.

Phần II: Những giải pháp để công tác phối hợp đạt chất lượng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại địa phương

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cơ quan Thi hành án dân sự đang đứng trước những cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách để khẳng định vị thế, vai trò trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Để hoàn thành sứ mệnh, trọng trách mà Đảng và nhân dân tin tưởng giao phó trong việc tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, ngoài đạo đức, năng lực sở trường công tác, các kỹ năng cần thiết khác trong quá trình tác nghiệp của công chức cơ quan Thi hành án dân sự thì công tác phối kết hợp với các cơ quan hữu quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự là điều cần phải chú trọng nhằm tạo mối gắn kết trong hoạt động thi hành án dân sự, từ đó hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thi hành án đem lại kết quả cao nhất.

Với những kiến thức đã được học và từ thực tiễn trong công tác, trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện thể chế thi hành án dân sự, đặc biệt là công tác hướng dẫn thực hiện Luật Thi hành án dân sự và các Nghị định hướng dẫn thi hành, trong đó cần chú trọng đẩy mạnh xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 74/NĐ-CP nhằm bảo đảm các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự, kịp thời sữa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có mâu thuẫn, tạo hành lang pháp lý an toàn cho cán bộ, chấp hành viên trong thực hiện nhiệm vụ.

Thứ hai: Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định phải tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Như vậy, để phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức hệ thống Tòa án, tổ chức cơ quan quản lý thi hành án, cơ quan Thi hành án cũng phải được nghiên cứu để sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, vị thế của cơ quan Thi hành án dân sự trong thời gian tới.

Thứ ba: Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, bản lĩnh nghề nghiệp cho cán bộ, công chức thi hành án dân sự, thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, thực hiện tốt Quy chế dân chủ trong cơ quan.

Quán triệt sâu sắc và đẩy mạnh thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, xây dựng lề lối làm việc, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm không để ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan; thực hiện văn minh, văn hóa công sở.

Xác định công tác thi hành án dân sự có sự gắn kết chặt chẽ với địa phương và chỉ có thể phát triển bền vững khi nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ, tạo điều kiện của các địa phương. Vì vậy, cơ quan Thi hành án phải tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ và quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp có hiệu quả với các cơ quan, tổ chức tạo sự đồng thuận trong công tác thi hành án dân sự.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự, đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, chỉ đạo các Ngành có liên quan phối hợp thường xuyên với các cơ quan Thi hành án xử lý dứt điểm các vụ việc phức tạp, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.

Thứ tư: Công tác thi hành án hành chính tuy là nhiệm vụ mới được giao cho Ngành, đây là vinh dự nhưng cũng là nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi mỗi cán bộ trong cơ quan phải nghiên cứu và tổ chức thực hiện làm cho công tác này đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao. Vì vậy, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới phương pháp đào tạo đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu và giảng dạy, tạo điều kiện cho công chức tiếp cận với những tình huống, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự.

Thứ năm: Do hiện nay, việc giải thích bản án, chuyển giao tang, tài vật, thông báo về nơi chấp hành án phạt tù đôi lúc chưa được kịp thời, chặt chẽ, một số vụ việc cần áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn tố tụng chưa được thực hiện kịp thời nên khi bản án có hiệu lực pháp luật thì không còn tài sản để bảo đảm thi hành án. Vì vậy cần ban hành quy định về quy chế phối hợp, có phương án họp giao ban định kỳ hàng quý giữa cơ quan Thi hành án dân sự - Tòa án - Viện Kiểm sát - Công an cùng cấp, tạo sự gắn kết trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự.

Thứ sáu: Thường xuyên quán triệt và tuyên truyền sâu rộng Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành để các tổ chức, cá nhân nhận thức đúng, đầy đủ hơn quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong công tác thi hành án dân sự.

Thứ bảy: Tăng cường cơ sở, vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí, hoạt động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan Thi hành án trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Có chính sách đãi ngộ hợp lý cho những người tham gia trong quá trình phối hợp với cơ quan Thi hành án.

Phần III: Những đề xuất, kiến nghị và kết luận

1. Đối với Trưng ương

Quá trình sửa đổi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cần kịp thời sửa chữa triệt để những vướng mắc, mâu thuẫn nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho công chức, chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.

Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật để áp dụng thống nhất trong toàn ngành, hạn chế việc hiểu sai, lệch lạc dẫn đến tình trạng áp dụng sai luật;

Xem xét sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo, thống kê thi hành án dân sự phù hợp với đặc thù của cơ quan Thi hành án dân sự và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Thi hành án hoàn thành nhiệm vụ;

Tăng định mức chi cho các đối tượng tham gia phối hợp trong công tác thi hành án dân sự;

Cấp có thẩm quyền cần cần tăng thêm biên chế cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm và quy định thành lập Đội Văn phòng tại Chi cục thuộc thủ phủ của tỉnh.

2. Đối với địa phương

Cấp ủy, chính quyền địa phương, Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự thành phố thường xuyên quan tâm chỉ đạo sự hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, Ban, Ngành liên quan trong công tác thi hành án dân sự. Có cơ chế khen thưởng kịp thời đối với những trường hợp làm tốt công tác phối hợp trong công tác thi hành án dân sự và kỷ luật đối với những trường hợp né tránh, lơ là trong việc phối hợp.

Ủy ban nhân dân cùng cấp tỉnh, huyện quan tâm hơn nữa việc hỗ trợ tài chính trong hoạt động thi hành án dân sự. Cấp có thẩm quyền xem xét sớm giao đất cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.

3. Kết luận

Công tác thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác được pháp luật quy định ra thi hành xuất phát từ nguyên tắc hiến định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, qua đó tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, công tác thi hành án dân sự là một lĩnh vực nhạy cảm, xuyên suốt quá trình tác nghiệp đều liên quan trực tiếp đến tiền, tài sản…của tổ chức, cá nhân để buộc thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo bản án, quyết định của Tòa án, do đó có những trường hợp luôn cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành án làm cho quá trình tổ chức thi hành gặp rất nhiều khó khăn.

Trong giai đoạn hiện nay, công tác thi hành án dân sự luôn được các cấp, các ngành đặc biệt chú trọng, quan tâm, vấn đề đẩy mạnh công tác thi hành án và tăng cường giải quyết án tồn đọng là một trong những yêu cầu trong những chiến lược cải cách tư pháp đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Ban chấp hành Trung ương Đảng xác định, nhằm mục tiêu chung là hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật tiến tới xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để góp phần thực hiện chủ trương này, trước hết về lý luận cần phải nghiên cứu sâu kỹ, đồng thời kết hợp với tổng kết, đánh giá toàn diện thực tiễn công tác thi hành án dân sự.

Với điều kiện thời gian nghiên cứu và khả năng kiến thức có giới hạn, trong phạm vi đề tài, tôi không thể phân tích toàn diện công tác thi hành án dân sự, chỉ phân tích những vấn đề đã nêu trên và rút ra kết luận:

- Để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự chặt chẽ, phù hợp với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

- Qua bốn năm thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008, mặc dù đã đem lại hiệu quả tích cực nhất định, tuy nhiên đã dần bộc lộ những hạn chế, không phù hợp trong thực tiễn thi hành trong giai đoạn hiện nay cần được sữa đổi, bổ sung kịp thời nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự, trong đó cần khẳng định công tác thi hành án dân sự là một trong những giai đoạn tố tụng.

- Đẩy mạnh công tác tổ chức cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh pháp lý theo hướng chuyên nghiệp đi đôi với việc đào tạo về trình độ lý luận chính trị, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự.

- Có chế độ lương, chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm gắn kết công chức với nghề nghiệp để lực lượng này yên tâm công tác, cống hiến trí tuệ, công sức cho ngành thi hành án dân sự.

Công tác thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hệ thống các cơ quan tư pháp, việc bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật phải được thực hiện đến cùng, khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành triệt để, không để bản án, quyết định của Tòa án được thi hành kéo dài trong nhiều năm, trừ trường hợp bản án, quyết định được tuyên thi hành theo định kỳ. Vì vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong công tác thi hành án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm làm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi hành dứt điểm, có hiệu quả, và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và tính nghiêm minh của pháp luật.

Đinh Đức Trọng

Chi cục THADS TP Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận