Chủ thể thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của Luật phá sản của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam

29/10/2021
Luật phá sản 2014 (LPS 2014) của Việt Nam đã có hiệu lực thi hành trên thực tiễn được hơn sáu năm qua. Trong quá trình áp dụng hầu hết các cá nhân, tổ chức có liên quan đều đánh giá rất cao hiệu quả của LPS 2014, đặc biệt là về trình tự thủ tục từ lúc Tòa án thụ lý cho đến lúc ra quyết định tuyên bố phá sản đã được quy định phù hợp, nhanh chóng hơn so với trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Một trong những vấn đề đó là các quy định về chủ thể thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Bài viết này nêu lên một số quy định về chủ thể thi hành quyết định tuyên bố phá sản của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.


Tình trạng một số cá nhân, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ dẫn đến phá sản là một tất yếu của nền kinh tế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt.
Với sự phát triển của xã hội nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng, thì việc xây dựng luật phá sản là một nhu cầu tất yếu. Luật phá sản cũng có thể được xem như là một trong những loại “thuốc chữa bệnh” cho nền kinh tế, khi một trong những tế bào của nó gặp phải khiếm khuyết. Mục đích cơ bản của luật phá sản thứ nhất là hỗ trợ, phục hồi khả năng hoạt động của một số chủ thể gặp khó khăn trong kinh doanh mà bản thân họ không thể tự mình đứng dậy được, thứ hai là xử lý tình trạng một số chủ thể làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán, không còn khả năng hoạt động, được chấm dứt tồn tại về mặt pháp lý. Đồng thời xử lý hậu quả để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan như người lao động, chủ nợ và cả con nợ...
Trong quá trình giải quyết phá sản thì việc quản lý, thanh lý tài sản của chủ thể bị phá sản để giải quyết các khoản nợ là một trong những vấn đề trọng tâm. Do vậy, trong hệ thống của pháp luật về phá sản của bất cứ một quốc gia nào cũng không thể thiếu các quy định về quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Đặc biệt là các quy định về chủ thể trực tiếp quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản cả trước và sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản. Để có một cái nhìn đa chiều về vấn đề này, chúng tôi đã tìm hiểu quy định về chủ thể tham gia quản lý tài sản, thanh lý tài sản trong pháp luật phá sản của một số quốc gia trên thế giới, qua đó đưa ra một số ý kiến góp phần vào quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể tham gia giải quyết phá sản trong Pháp luật phá sản của Việt Nam trong tương lai.
Chủ thể tiến hành việc quản lý, thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản của Nhật Bản
Theo quy định của pháp luật phá sản của Nhật bản thì cùng với việc ra quyết định phá sản, Tòa án chỉ định nhân viên quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Trường hợp doanh nghiệp bị phá sản không còn tài sản thì Tòa án sẽ tuyên bố chấm dứt thủ tục phá sản ngay.
- Quản lý và bán tài sản của doanh nghiệp: Nhiệm vụ này do nhân viên quản lý tài sản thực hiện. Ngay sau khi được chỉ định, nhân viên quản lý tài sản sẽ đến trụ sở doanh nghiệp mắc nợ và thực hiện các biện pháp bảo toàn tài sản theo quyết định của Toà án. Nếu doanh nghiệp chưa cho công nhân thôi việc thì họ sẽ cho công nhân thôi việc. Nhân viên quản lý tài sản quyết định việc bán tài sản theo thủ tục thông thường hoặc tổ chức bán đấu giá, quyết định việc dừng kinh doanh hay để doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục kinh doanh. Tất cả tiền thu được phải gửi vào một tài khoản riêng và mục tiêu là chuyển toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bị phá sản thành tiền để thanh toán cho giai đoạn tiếp theo. Nhân viên quản lý có quyền hủy những hành vi nhất định được thực hiện trước khi có quyết định tuyên bố phá sản mà gây thiệt hại đối với các chủ nợ
- Thanh toán khoản nợ và chấm dứt thủ tục phá sản. Nhân viên quản lý tài sản sẽ thực hiện công việc này. Sau ngày kiểm tra các khoản nợ đầu tiên, người quản lý tài sản có trách nhiệm phân chia các tài sản tiền mặt của công ty bị phá sản. Sau khi thanh lý hoàn toàn, người quản lý tài sản tiến hành phân chia tài sản của công ty bị phá sản lần cuối với sự phê chuẩn của Toà án. Sau đó, Toà án triệu tập một cuộc họp toàn thể các chủ nợ để nhân viên quản lý tài sản trình bày về mặt tài chính. Khi giá trị của khối tài sản phá sản không đủ để trả các chi phí phá sản thì Toà án tuyên bố chấm dứt thủ tục phá sản. Khi yêu cầu tuyên bố phá sản, Tòa án đánh giá rằng tổng tài sản phá sản sẽ không đủ chi phí thì Tòa án có trách nhiệm tuyên bố chấm dứt phá sản ngay khi quyết định tuyên bố phá sản[1]
Như vậy, chúng ta có thể thấy pháp luật về phá sản của Nhật Bản quy định về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, việc quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản do một cá nhân thực hiện, người này được gọi là Nhân viên quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Thứ hai, nhân viên quản lý tài sản là người do tòa án chỉ định, chịu trách nhiệm quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản kể từ khi tòa án ra quyết định phá sản cho đến khi tòa án tuyên bố chấm dứt thủ tục phá sản. Theo đánh giá của các chuyên gia pháp luật trong tổ chức Jica của Nhật Bản thì nhân viên quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản hành nghề với tư cách cá nhân như nghề Luật sư và họ hoạt động rất hiệu quả và là một trong những nghề khá thịnh hành ở Nhật Bản.
Chủ thể tiến hành việc quản lý, thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp
Quy định của pháp luật hiện đại về phá sản của Pháp được đưa ra trong các luật năm 1955, năm 1967. Hiện tại, việc giải quyết phá sản ở Pháp được quy định tại Luật ngày 25-01-1985 (được sửa đổi theo Luật Phá sản ngày 20-10-1994). Một trong những đặc trưng của pháp luật phá sản hiện đại của Pháp là khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật cũng phân biệt rõ các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản và sự phân biệt thứ tự ưu tiên các quyền của chủ nợ đối với người mắc nợ. Pháp luật về phá sản của Pháp cũng quy định hai thủ tục: Thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản[2].
Một số chủ thể tham gia quản lý, thanh lý tài sản theo luật phá sản của cộng hòa Pháp được quy định cụ thể như sau[3]:
Tại Điều 9 quy định: “Từ một đến ba đại diện các chủ nợ được giao nhiệm vụ tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thủ tục thanh lý doanh nghiệp.
Những người có quan hệ họ hàng hoặc thông gia trong phạm vi bốn đời với con nợ không được bầu làm đại diện cho các chủ nợ
Thẩm phán phụ trách thủ tục xử lý phá sản doanh nghiệp, theo yêu cầu của con nợ hay các chủ nợ, hoặc có thể tự mình can thiệp đề nghị thay đổi một hoặc một số đại diện của các chủ nợ
Điều 13 quy định “Quyết định của tòa án về việc mở thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý doanh nghiệp xác định ra danh sách các chủ nợ với một người làm đại diện. đại diện các chủ nợ là người duy nhất thay mặt các chủ nợ tham gia tố tụng và có thể ràng buộc trách nhiệm các chủ nợ…
Luật phá sản của Pháp quy định, ngay khi tòa án tuyên bố mở thủ tục thanh lý doanh nghiệp hay quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi doanh nghiệp sang thành thủ tục thanh lý doanh nghiệp thì đại diện các chủ nợ tiến hành thủ tục lập bảng tổng kết nợ đồng thời “đại diện các chủ nợ tự tiến hành bán hàng hóa và động sản của con nợ, tiến hành thu hồi các khoản nợ và thanh toán nợ của con nợ. Sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết do thẩm phán phụ trách thủ tục quyết định duyệt, số tiền thu được từ việc bán và thu nợ được chuyển ngay đến quỹ tiền gửi và ký thác. Đại diện các chủ nợ phải chứng thực với thẩm phán phụ trách thủ tục về các khoản tiền gửi đó; …” thủ tục thanh lý doanh nghiệp sẽ được tòa án ra quyết định tuyên bố chấm dứt (chấm dứt việc giải quyết phá sản) khi đã xử lý xong tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy, theo pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp thì chủ thể tham gia quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản là đại diện các chủ nợ. Người này, không phải là công chức của nhà nước, không phải là đại diện cho một cơ quan, tổ chức nào mà họ là người trong số các chủ nợ được thẩm phán chỉ định hoặc các chủ nợ lựa chọn và họ tham gia vào quá trình giải quyết phá sản từ giai đoạn đầu cho đến khi kết thúc thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Chủ thể tiến hành việc quản lý, thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản ở Liên bang Nga
Luật Phá sản doanh nghiệp của Liên bang Nga quy định các thủ tục gồm: Thủ tục tổ chức lại và Thủ tục thanh lý. Trong cả hai thủ tục này thì tòa án đều bổ nhiệm một người quản lý hoặc thanh lý tài sản của doanh nghiệp đang được giải quyết phá sản. Người này được gọi là Quản tài viên. Ví dụ như trong thủ tục tổ chức lại thì: Quản tài viên có quyền quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp, chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp; Tổ chức Hội nghị chủ nợ: Bầu uỷ ban chủ nợ; Phê duyệt kế hoạch quản lý tài sản của người mắc nợ; Bổ nhiệm (chỉ định một số doanh nghiệp) có nghĩa vụ chuyển tiền vào tài khoản ký quỹ tại Tòa án trọng tài; phê duyệt kế hoạch quản lý tài sản của người mắc nợ…Tuỳ tình hình cụ thể, Quản tài viên có quyền đề nghị Toà án trọng tài quyết định đối với doanh nghiệp: Chấm dứt quản lý tài sản và tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản; tiếp tục thực hiện quản lý doanh nghiệp; tuyên bố doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng trên và chấm dứt quản lý tài sản của doanh nghiệp[4] Quản tài viên theo phá luật phá sản của Liên bang Nga là người hành nghề độc lập, họ được hưởng thù lao khi tham gia vào quá trình giải quyết phá sản. Quản tài viên là chủ thể tham gia và chịu trách nhiệm quản lý và thanh lý các tài sản của doanh nghiệp bị phá sản từ khi được tòa án chỉ định cho đến khi kết thúc giải quyết việc phá sản.
Chủ thể tiến hành việc quản lý, thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Hiện nay ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 2006 (LPSDN 2006) vẫn còn hiệu lực thi hành. Vấn đề về chủ thể thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản được gọi là người quản lý (管  理  人) và được luật quy định khá đầy đủ.
Việc tham gia của người quản lý vào quá trình giải quyết phá sản được quy định rất sớm, cụ thể Điều 13 của LPSDN 2006, quy định “Trường hợp Tòa án nhân dân quyết định thụ lý đơn yêu cầu phá sản thì đồng thời chỉ định người quản lý”. Như vậy, người quản lý (Quản tài viên) được tham gia ngay từ đầu của quá trình giải quyết phá sản.
Theo quy định của LPSDN 2006 thì Quản tài viên ở Trung Hoa chưa được xem là một nghề độc lập, mà nhiều đối tượng có thể được Tòa án chỉ định làm Quản tài viên, cụ thể tại Điều 24 quy định:
“Quản tài viên có thể là một tổ thanh lý tài sản bao gồm nhân sự từ các bộ phận và tổ chức có liên quan, hoặc một công ty luật, công ty kế toán, công ty thanh lý phá sản và các cơ quan, tổ chức xã hội khác được thành lập theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp bị giải quyết phá sản, sau khi tham khảo ý kiến của cơ quan có liên quan, Toà án nhân dân có thể chỉ định người có trình độ, kiến thức chuyên môn phù hợp làm Quản tài viên”
Tuy nhiên, Quản tài viên do Tòa án chỉ định có thể bị thay thế: Nếu hội nghị chủ nợ cho rằng quản tài viên không thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách công bằng và phù hợp với luật pháp hoặc không đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ của mình, thì có thể nộp đơn yêu cầu tòa án nhân dân thay thế. Phương pháp chỉ định quản tài viên và xác định thù lao của quản tài viên do Tòa án nhân dân tối cao quy định[5].
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Quản tài viên thì Điều 25 LPSDN 2006, quy định:
(1) Tiếp quản tài sản, con dấu, sổ sách kế toán, tài liệu và các tài liệu khác của con nợ (doanh nghiệp phá sản); (2) Điều tra tình trạng tài sản của con nợ và lập báo cáo tình trạng tài sản; (3) Quyết định công việc quản lý nội bộ của con nợ; (4) Quyết định chi phí hàng ngày của con nợ và các chi phí cần thiết khác; (5) Quyết định tiếp tục hoặc ngừng hoạt động kinh doanh của con nợ trước khi cuộc họp chủ nợ đầu tiên được triệu tập; (6) Quản lý và xử lý tài sản của con nợ; (7) Đại diện cho con nợ trong các vụ kiện tụng, Trọng tài hoặc các thủ tục pháp lý khác; (8) Đề nghị triệu tập hội nghị chủ nợ; (9) Các nhiệm vụ khác mà tòa án nhân dân cho rằng quản tài viên phải thực hiện. Nếu luật này có quy định khác về nhiệm vụ của người quản lý thì các quy định đó được áp dụng.
Ngoài ra luật còn quy định Quản tài viên có thể được tuyển dụng nhân viên nếu được Tòa án đồng ý[6] và Quản trị viên không được từ chức mà không có lý do chính đáng. Quản tài viên từ chức phải được Tòa án nhân dân chấp thuận[7]. Đồng thời, Quản tài viên phải thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của luật này, báo cáo Tòa án nhân dân và chịu sự giám sát của Hội nghị chủ nợ và Hội đồng chủ nợ (Điều 23).
Luật phá sản của Trung Hoa cũng quy định về thủ tục tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Nếu việc phục hồi hoạt động kinh doanh không hiệu quả hoặc Hội nghị chủ nợ không thành thì căn cứ theo yêu cầu của Quản tài viên Tòa án sẽ ra quyết định chấm dứt việc thực hiện phương án tổ chức lại và tuyên bố con nợ phá sản (Điều 93, 99 LPSDN2006). Ngoài ra trong quá trình giải quyết phá sản mà doanh nghiệp không còn tài sản để phân chia hoặc sau khi phân chia xong, quản tài viên phải kịp thời báo cáo Tòa án nhân dân về việc phân chia tài sản phá sản và trình Toà án nhân dân ra quyết định chấm dứt thủ tục phá sản.
Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản thì việc xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp do Quản tài viên xây dựng kế hoạch, lên phương án và trực tiếp xử lý, cụ thể tại Điều 116 quy định: “Kế hoạch phân chia tài sản bị phá sản sẽ do Quản tài viên thực hiện sau khi tòa án nhân dân đã ra phán quyết và phê duyệt”.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quản tài viên chấm dứt sau khi thực hiện xong việc thanh lý tài sản và xóa tên doanh nghiệp bị phá sản tại cơ quan đăng ký kinh doanh[8]
Như vậy, theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thì Quản tài viên có thể là một cá nhân hoặc một tập thể, hoạt động theo sự chỉ đạo của tòa án và có sự giám sát của Hội đồng chủ nợ. Đồng thời, pháp luật cũng quy định cho Quản tài viên có nhiệm vụ, quyền hạn khá lớn và tương đối rõ ràng. Quản tài viên thực hiện việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán cũng như xử lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, thống nhất và xuyên suốt kể từ khi được tòa án thụ lý vụ việc phá sản cho đến khi chấm dứt giải quyết vụ việc phá sản, trong đó có cả việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Pháp luật của mỗi nước trên thế giới có những quy định khác nhau về chủ thể quản lý tài sản phá sản. Tuy nhiên, khái quát lại có thể thấy có 2 mô hình chủ thể phổ biến là mô hình chủ thể quản lý tài sản là những cá nhân (Tín thác viên theo luật phá sản Hoa Kỳ, Quản tài viên theo luật phá sản của Thụy Điển và Latvia, quản trị viên theo luật phá sản Nhật Bản và luật phá sản Cộng hòa liên bang Nga…) và mô hình là một thiết chế tập thể (như trong pháp luật phá sản Việt Nam trước 2014 và Luật Phá sản Trung quốc). Đồng thời với mỗi mô hình, pháp luật các nước cũng trao cho chủ thế này những nhiệm vụ quyền hạn rộng hẹp khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của mỗi nước[9]
Pháp luật phá sản các nước đều thể hiện vai trò của người quản lý, thanh lý tài sản (gọi tắt là Quản tài viên) trong quá trình giải quyết việc phá sản nói chung và trong giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản nói riêng. Qua việc tìm hiểu pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, như sau:
Thứ nhất, việc quản lý tài sản và thanh lý tài sản trong quá trình phá sản nên nghiên cứu chỉ giao cho tổ chức hoặc cá nhân hành nghề độc lập (Quản tài viên), không nên trao thẩm quyền cho nhiều chủ thể như quy định của LPS 2014 (các chủ thể tham gia vào quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản hiện nay có Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và Chấp hành viên).
Việc thống nhất giao thẩm quyền cho một chủ thể chịu trách nhiệm thi hành quyết định tuyên bố phá sản sẽ đảm bảo được tính liên tục, tự chịu trách nhiệm. Đồng thời, sẽ giảm được một số trình tự, thủ tục không cần thiết. Ngoài ra cũng nên quy định chủ thể này tham gia thực hiện việc giải quyết phá sản ngay từ giai đoạn Tòa án thụ lý vụ việc cho đến khi xử lý xong hết tài sản của chủ thể bị phá sản (thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản). Nếu được như vậy thì việc thanh lý tài sản trong suốt quá trình giải quyết phá sản sẽ đạt được hiệu quả cao hơn so với việc quy định nhiều chủ thể thi hành quyết định tuyên bố phá sản và có nhiều thủ tục khác nhau. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ Quản tài viên theo các tiêu chí và chuẩn mực nhất định để phù hợp với hoạt động của họ, giúp nâng cao được chất lượng, năng lực của Quản tài viên, tạo niềm tin cho xã hội.
Thứ hai, thủ tục giải quyết phá sản, kể cả thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản chỉ nên trao thẩm quyền cho một đại diện của nhà nước tham gia, quyết định và giám sát trong toàn bộ quá trình giải quyết, đó là Thẩm phán của Tòa án.
Có thể thấy pháp luật phá sản của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết phá sản kể từ khi thụ lý cho đến khi chấm dứt thủ tục phá sản. Về vấn đề này LPS 2014 của chúng ta đang có sự cắt khúc gián đoạn. Theo đó, trước khi có quyết định tuyên bố phá sản thì Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết việc phá sản có thẩm quyền quyết định cao nhất, đồng thời là người giám sát hoạt động của Quản tài viên. Còn sau khi có quyết định tuyên bố phá sản thì Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên lại được trao quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản lại được chia làm 2 giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu  thì Chấp hành viên tham gia chủ yếu với vai trò giám sát hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản, sau đó thì Chấp hành viên mới thực sự trực tiếp thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Điều này đã gây ra không ít khó khăn, bất cập cho cả quá trình giải quyết việc phá sản, vì Chấp hành viên lại phải bắt đầu một quá trình mới như thông báo, xác minh truy tìm tài sản… những thủ tục mà trước đó Thẩm phán, Quản tài viên đã thực hiện và đang theo dõi, giải quyết.
Thứ ba, trình tự, thủ tục thanh lý tài sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản cần được quy định và áp dụng thống nhất theo những quy định đặc thù để đảm bảo hiệu quả của việc giải quyết phá sản nói chung và việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản nói riêng.
Thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý đặc thù, quyết định tuyên bố phá sản cũng mang tính đặc thù, nó không giống như những quyết định, bản án thông thường khác. Trong các bản án, quyết định của Tòa án mà cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành thường có một bên là người được thi hành án và một bên là người phải thi hành án. Tuy nhiên, quyết định tuyên bố phá sản về bản chất là thủ tục để chấm dứt sự tồn tại của một pháp nhân, đồng thời thanh lý các tài sản còn lại để thanh toán cho các chủ nợ. Như vậy, khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì chỉ có một bên là chủ nợ (người được thi hành án), mà không có người phải thi hành án vì chủ thể bị phá sản về mặt pháp lý đã chấm dứt sự tồn tại. Chấp hành viên, hay Quản tài viên là những người được Nhà nước giao nhiệm vụ thanh lý tài sản còn lại của chủ thể bị phá sản. Do vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự để giải quyết sẽ gặp rất nhiều vấn đề khó khăn vướng mắc, vì nhiều thủ tục trong thi hành án dân sự cần phải có sự tham gia của các bên đương sự. Đặc biệt là người phải thi hành án thì mới đảm bảo tính khách quan.
Kết quả giải quyết thi hành án đối với các quyết định tuyên bố phá sản kể từ khi LPS 2014 có hiệu lực thi hành vẫn còn nhiều hạn chế. Chúng tôi cho rằng một trong những nguyên nhân của thực trạng này chính là quy định của pháp luật phá sản của chúng ta về vấn đề chủ thể thi hành quyết định tuyên bố phá sản vẫn chưa thực sự phù hợp. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một mô hình, nội dung hợp lý của vấn đề này là thực sự cần thiết để chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn trong quá trình hoàn thiện pháp luật về phá sản nói chung và vấn đề chủ thể thi hành quyết định tuyên bố phá sản nói riêng.
Hồ Quân Chính – GV Khoa ĐT các chức danh THADS
 

[1] Phan Thị Thu Hà (2010) Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, Chuyên đề khoa học xét xử: tìm hiểu luật phá sản – tập 1; tr 91
[2] Phan Thị Thu Hà (2010) Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, Chuyên đề khoa học xét xử: tìm hiểu luật phá sản – tập 1, tr.96
[3]Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Bản dịch Luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp, thanh lý doanh nghiệp, xử lý phá sản cá nhân và tội phá sản,  Hà nội, tháng 4/2002
[4] Phan Thị Thu Hà (2010) Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, Chuyên đề khoa học xét xử: tìm hiểu luật phá sản – tập 1, tr.97
[5] Điều 22 Luật phá sản doanh nghiệp năm 2006 của Trung Hoa
[6] Điều 28 Luật phá sản doanh nghiệp năm 2006 của Trung Hoa
[7] Điều 29 Luật phá sản doanh nghiệp năm 2006 của Trung Hoa
[8] Xem thêm phần 3 Chương 10 Luật phá sản doanh nghiệp năm 2006 của Trung Hoa
[9] Đặng Văn Huy (2012), Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản, Tạp chí Pháp luật và Doanh nghiệp số 2