Miễn, giảm khoản tiền lãi chậm thi hành án thực hiện thế nào cho đúng?

Miễn, giảm thi hành án là một quy định nhằm xem xét, xóa bỏ hoặc giảm bớt một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước đối với người phải thi hành án khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc được xem xét miễn, giảm một mặt là quyền của người phải thi hành án, mặt khác là trách nhiệm của các cơ quan chức năng, trong đó bao gồm cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Tòa án nhân dân.Trong thực tiễn rà soát, xây dựng hồ sơ miễn, giảm thi hành án trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành nhận thấy còn có những cách hiểu không thống nhất, dễ dẫn đến bỏ sót những trường hợp lẽ ra có đủ điều kiện, điều này gây ảnh hưởng đến chính sách của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến người phải thi hành án.

Bất cập về cưỡng chế giao, trả giấy tờ trong thi hành án dân sự

Cưỡng chế giao, trả giấy tờ trong Luật Thi hành án dân sự hiện nay được quy định tại Điều 44a, Điều 106 và Điều 116. Có thể thấy rằng các Điều luật này đã dự liệu và có sự phân hóa về phương án xử lý trong trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp lại giấy tờ, trường hợp giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại.

Bàn về việc kê biên, xử lý tài sản chung

Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án thì pháp luật đã giao cho Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự được quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án. Trong 06 biện pháp cưỡng chế cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự thì biện pháp “Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ” được Chấp hành viên áp dụng nhiều nhất. 

Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả thi hành án các vụ việc liên quan đến án tham nhũng, kinh tế

Thời gian qua, công tác thi hành án dân sự nói chung và thi hành án các vụ việc liên quan đến án tham nhũng, kinh tế nói riêng luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nhận thức rõ việc thi hành án để thu hồi tiền, tài sản tham nhũng, tài sản cho Nhà nước trong các vụ án xâm phạm các quy định trong quản lý kinh tế là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nhằm khắc phục hậu quả do tham nhũng, vi phạm pháp luật gây ra, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, có tác động răn đe, phòng ngừa tội phạm, tăng cường kỷ cương phép nước, củng cố lòng tin của nhân dân, góp phần đắc lực vào công tác đấu tranh chống tham nhũng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự đã quan tâm chỉ đạo rất sát sao đối với việc thi hành án các vụ việc loại này, theo đó, đã triển khai nhiều các giải pháp, như: ban hành văn bản chỉ đạo chung hoặc đối với từng vụ việc cụ thể; làm việc trực tiếp với các đơn vị, địa phương; yêu cầu báo cáo tiến độ, kết quả theo định kỳ hàng tháng… qua đó đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc, đồng thời, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương.

Giải quyết vướng mắc trong việc tổ chức thi hành quyết định giám đốc thẩm

Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 thay cho Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 và Luật số 65/2011/QH12. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 bao gồm các quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự và nhiều điểm mới cập nhật. Bộ luật tố tụng dân sự có nhiệm vụ góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Do đó, Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật đặc biệt là Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các đạo luật có liên quan. Đồng thời sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 và Luật số 65/2011/QH12 nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Vấn đề thu phí thi hành án trong vụ việc thi hành án phá sản

Ngày 10/11/2016, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 216/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự. Thông tư ban hành đã giải quyết được một số khó khăn vướng mắc liên quan đến việc thu phí thi hành án dân sự như: thu phí thi hành án dân sự khi các đương sự thỏa thuận việc thi hành án; việc hoàn phí thi hành án trong trường hợp có nhầm lẫn về số tiền phí thi hành án ... Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Thông tư trên  trong thực tiễn đã phát sinh bất cập cần tháo gỡ, đó là việc thu phí thi hành án trong các vụ việc thi hành án phá sản. 

Bàn về việc trích nộp tiền thuế

Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự (THADS) thì trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp, bị kê biên được ưu tiên hanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bản đảm sau khi trừ án phí của bản án, quyết định đó, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật THADS. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tài sản được xử lý để đảm bảo thi hành án còn đặt ra thứ tự thanh toán khoản nghĩa vụ tài chính người phải thi hành án phải thực hiện đối với Nhà nước thì khi xử lý số tiền thu được từ việc bán tài sản, cầm cố sẽ được cơ quan THADS xử lý như thế nào? Vấn đề này được đặt ra từ một vụ việc cụ thể, tác giả đưa ra để đồng nghiệp cùng nghiên cứu, trao đổi, đưa ra quan điểm giải quyết.

Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Nghiên cứu pháp luật về thi hành án dân sự cho thấy quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chiếm nội dung và số lượng điều luật nhiều nhất trong các quy định pháp luật về nghiệp vụ thi hành án dân sự. Vậy thì, việc xây dựng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần được xây dựng trên cơ sở khoa học, triết lý căn bản nào để đảm bảo hiệu quả của việc cưỡng chế thi hành án dân sự, bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền, nghĩa vụ đã được quyết định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Theo chúng tôi, việc xây dựng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần được xây dựng trên cơ sở khoa học sau đây:

Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo là nhiệm vụ quan trọng luôn được Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đặc biệt quan tâm. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo tháng 10/2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương tổ chức tốt việc tiếp công dân theo định kỳ và đột xuất; chủ động rà soát, nắm tình hình, kịp thời phát hiện và có giải pháp xử lí các trường hợp khiếu kiện đông người, vượt cấp ngay tại cơ sở.  

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo; các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài

Thời gian qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có nhiều chỉ đạo nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo; đẩy nhanh tiến độ, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài về thi hành án dân sự. Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục cũng luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với công tác này. Kết quả cho thấy về cơ bản công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng giải quyết khiếu nại đã được nâng lên rõ rệt. Hầu hết các đơn thư khiếu nại, tố cáo đều được xem xét giải quyết kịp thời, đúng quy định, có căn cứ mang tính thuyết phục. Kết quả giải quyết đạt và vượt chỉ tiêu về giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ Tư pháp giao. Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo tại nhiều cơ quan Thi hành án dân sự địa phương có xu hướng giảm, tuy nhiên số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi vượt cấp tới cơ quan Trung ương (Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự) lại có xu hướng tăng; không chỉ nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo trùng lặp mà số các vụ việc mới phát sinh cũng đang tăng dần, trong khi nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, không được giải quyết dứt điểm. Số lượng công dân đến Tổng cục, yêu cầu được Lãnh đạo Bộ Tư pháp tiếp dân còn nhiều và hầu hết vụ nào người dân cũng bức xúc với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của địa phương. Tình hình này cho thấy khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự vẫn rất phức tạp.