Một số nội dung mới cần lưu ý về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự

30/06/2018
Quyền tố cáo được ghi nhận tại Hiến pháp và trở thành một trong những quyền cơ bản của công dân. Thực hiện quyền tố cáo là phương thức để nhân dân giám sát và tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, giải quyết tố cáo là bảo đảm quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.


Quyền tố cáo được ghi nhận tại Hiến pháp và trở thành một trong những quyền cơ bản của công dân. Thực hiện quyền tố cáo là phương thức để nhân dân giám sát và tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, giải quyết tố cáo là bảo đảm quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng chống các hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
1. Khái niệm về tố cáo
Tố cáo theo nghĩa chung nhất là vạch tội lỗi, hành vi vi phạm, việc
làm không đúng của kẻ khác trước cơ quan, tổ chức hoặc trước dư luận, trước nhân dân. Theo Đại từ điển tiếng Việt: tố cáo là vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận. Theo Luật tố cáo năm 2011 thì tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Theo Luật Tố cáo năm 2018 vừa được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 thì tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Ngoài ra, Luật quy định với tố cáo nặc danh, mạo danh, trong trường hợp có thông tin rõ ràng về người có vi phạm, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan chức năng tiếp nhận, tiến hành thanh, kiểm tra theo thẩm quyềnhững hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến hành thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý.
Như vậy, xét về bản chất việc thực hiện quyền tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân mà trong đó bên đi tố cáo báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Việc bảo vệ người tố cáo được Nhà nước chú trọng. Bởi lẽ việc tố cáo hướng tới việc xử lý vi phạm cho nên nếu người bị tố cáo thực sự đã có hành vi vi phạm thì họ sẽ tìm mọi cách che giấu, trả thù người tố cáo. Thêm nữa, người bị tố cáo thường là những người có chức vụ, quyền hạn, có điều kiện để thực hiện hành vi trả thù của mình. Cho nên, việc bảo vệ người tố cáo là một trong những vấn đề được pháp luật hết sức quan tâm. Luật tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03-10-2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tố cáo đã đưa ra rất nhiều quy định về vấn đề này: Bảo vệ bí mật cho người tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố cáo (Điều 12), bảo vệ tính mạng, tài sản, sức khỏe cho người tố cáo và người thân thích của người tố cáo (Điều 14); bảo vệ tài sản của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo; bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo (Điều 14) bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức (Điều 17) bảo vệ không chỉ người tố cáo mà cả thân thích của người tố cáo; bảo vệ người tố cáo ở nơi cứ trú, ở nơi làm việc và nơi có tài sản…
Luật Tố cáo năm 2018 quy định về bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo như sau:
(1) Việc bảo vệ người tố cáo nhằm bảo vệ, khuyến khích, động viên người dân dũng cảm đấu tranh chống lại các hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, giúp các cơ quan nhà nước phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
(2) Trên cơ sở đó, để bảo vệ người tố cáo, Điều 47 của Luật quy định cụ thể: Người được bảo vệ bao gồm: người tố cáo; vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo.
(3) Phạm vi bảo vệ, Luật quy định bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo về vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ.
(4) Luật giao trách nhiệm bảo vệ trước hết thuộc về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Bên cạnh đó, các cơ quan khác, trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo và những người thân thích của họ, đó là cơ quan tiếp nhận, xác minh nội dung tố cáo; cơ quan công an; cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức, lao động; Ủy ban nhân dân các cấp, công đoàn các cấp…
Do tố cáo có thể đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi, danh dự của người bị tố cáo nên pháp luật đề cao trách nhiệm của người tố cáo, đòi hỏi người tố cáo phải trung thực và chịu trách nhiệm về việc tố cáo sai sự thật nếu cố tình, thậm chí có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu cáo, vu khống theo quy định của Bộ luật hình sự. Nếu cho phép tổ chức tố cáo thì sẽ không thể xử lý bởi vì pháp luật Việt Nam hiện nay chưa chấp nhận truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (cơ quan, tổ chức).
Tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự được quy định từ Điều 154 đến Điều 158 Luật thi hành án dân sự, Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự. Theo quy định này thì tố cáo trong thi hành án dân sự là việc công dân theo thủ tục do Luật thi hành án dân sự báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Đối tượng thực hiện quyền tố cáo trong thi hành án dân sự thường là đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
2. Quyền của người tố cáo
Xuất phát từ mục đích của tố cáo là hướng tới việc xử lý hành vi vi phạm và người có hành vi vi phạm nên ngoài một số quyền cơ bản thì pháp luật hiện hành chú trọng bảo vệ người tố cáo và đề cao trách nhiệm của người tố cáo. Điều 154 và Điều 155 Luật Thi hành án dân sự quy định: Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Người tố cáo có các quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (không được uỷ quyền cho người khác); yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù. Trong đó, pháp luật đặc biệt quan tâm đến quyền được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo bởi lẽ nếu người bị tố cáo thực sự đã có hành vi vi phạm thì họ sẽ tìm mọi cách che giấu hoặc trả thù người tố cáo. Thêm nữa, người bị tố cáo thường là những người có chức vụ, quyền hạn là các Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi đang tổ chức thi hành vụ việc thi hành án có tố cáo nên sẽ có điều kiện để thực hiện hành vi trả thù của mình. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tố cáo cho thấy một số nơi chưa thực hiện đúng quy định này, còn công khai tên, địa chỉ người tố cáo trong các quyết định, văn bản giải quyết tố cáo như trong Quyết định thụ lý tố cáo, Quyết định thụ lý và thành lập Đoàn xác minh nội dung tố cáo,…
Quyền rút tố cáo quy định tại Điều 17 Thông tư số 02/2016/TT-BTP quy định quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo quy định. Người tố cáo được rút một phần hoặc toàn bộ nội dung tố cáo nếu việc rút tố cáo là có căn cứ. Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết nội dung tố cáo đó. Tuy nhiên, trường hợp xét thấy hành vi vi phạm pháp luật vẫn chưa được phát hiện và xử lý hoặc có căn cứ cho rằng, việc rút tố cáo do người tố cáo bị đe dọa, ép buộc, thì người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, xử lý nghiêm đối với người đe dọa, ép buộc người tố cáo, đồng thời phải xem xét, giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật
Quyền tố cáo tiếp, Điều 20 Luật Tố cáo quy định người tố cáo có quyền tố cáo tiếp và người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chỉ giải quyết khi tố cáo tiếp thuộc một trong các trường hợp sau: Đã quá thời hạn giải quyết tố cáo mà vụ việc chưa được giải quyết hoặc có nội dung tố cáo chưa được giải quyết; tố cáo đã được giải quyết đúng pháp luật, nhưng có tình tiết mới chưa được phát hiện trong quá trình giải quyết tố cáo có thể làm thay đổi kết quả giải quyết tố cáo; khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (cụ thể: Vi phạm pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết lại tố cáo; có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo không phù hợp với những chứng cứ thu thập được; việc xử lý người bị tố cáo và các tổ chức, cá nhân liên quan không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật đã được kết luận; có bằng chứng về việc người giải quyết tố cáo hoặc người tiếp nhận tố cáo, người xác minh nội dung tố cáo đã làm sai lệch hồ sơ vụ việc; có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của người bị tố cáo nhưng chưa được phát hiện).
3. Khái niệm giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự    
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo thực hiện hàng loạt hành động nối tiếp nhau theo một trình tự, cách thức nhất định, tức là chúng diễn ra theo một thủ tục nhất định. Thủ tục ấy là hình thức đối với nội dung của hoạt động. Tính trình tự, là sự thay đổi liên tục theo thứ tự thời gian của những hiện tượng và trạng thái phát triển của một hiện tượng, sự việc nào đó nhằm đạt tới một kết quả nhất định. Cách thức hoạt động là những biện pháp, phương cách, những hành động cụ thể mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải thực hiện để đạt được kết quả nhất định. Đó là những thuộc tính của hoạt động giải quyết tố cáo.
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là một loại hoạt động mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải thực hiện trong phạm vi hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và do các quy phạm thủ tục trong Luật thi hành án dân sự quy định và được Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp hoặc công chức được phân công làm công tác giải quyết tố cáo, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Thủ tục pháp lý về giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự được pháp luật quy định chặt chẽ hơn những loại thủ tục giải quyết yêu cầu, đề nghị, kiến nghị và phản ánh của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án hoặc những loại thủ tục thi hành án khác.
Như­ vậy, giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là hoạt động của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo thực hiện theo một trình tự, thủ tục pháp lý để giải quyết tố cáo của công dân, là cách thức mà cơ quan thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các quy định của luật pháp để giải quyết tố cáo.
Đi liền với quyền tố cáo của công dân là nghĩa vụ giải quyết tố cáo của các cơ quan thi hành án dân sự, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Làm tốt công tác giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự không những bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, giảm vụ việc thi hành án tồn đọng, bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành trên thực tế; mà qua đó còn tạo niềm tin của xã hội đối với hoạt động thi hành án dân sự, niềm tin vào những phán quyết của Tòa án, vào luật pháp và công lý.
Giải quyết tố cáo là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét hành vi của cá nhân, tổ chức, cơ quan bị người tố cáo cho là có hành vi trái pháp luật, xử lý đối với người có hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả do hành vi sai trái đó gây ra, nhằm giữ gìn kỷ cương, pháp luật. Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự cũng mang đầy đủ bản chất, nội dung, mục đích, ý nghĩa của hoạt động giải quyết tố cáo nói chung. Tại khoản 4 Điều 157 Luật Thi hành án dân sự quy định thủ tục giải quyết tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Như vậy, về bản chất, giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là việc cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm làm rõ việc tố cáo có đúng hay không? Cụ thể là xác định xem hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức hay không? Tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật ấy ra sao? Từ đó đưa ra kết luận về từng vấn đề liên quan, làm cơ sở cho việc ban hành kết luận nội dung tố cáo. Trong quá trình giải quyết tố cáo, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết tố cáo một mặt sử dụng những tài liệu, bằng chứng tiếp nhận từ người tố cáo; mặt khác có thể tổ chức xác minh, thu thập thêm thông tin, tài liệu để làm căn cứ cho việc kết luận nội dung tố cáo một cách chính xác. Từ đó kết luận nội dung tố cáo đúng hay không đúng. Trên cơ sở ấy ra kết luận nội dung công dân tố cáo là có cơ sở hay không có cơ sở; đồng thời quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật gây ra.   
Hoạt động giải quyết tố cáo nói trên được tiến hành trên cơ sở và theo các quy định của pháp luật, trước hết là pháp luật về giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự, pháp luật về tố cáo, ngoài ra còn phải tuân theo các quy định của pháp luật trong từng chuyên ngành. Chẳng hạn khi giải quyết tố cáo đối với Chấp hành viên có hành vi vi phạm pháp luật trong kê biên quyền sử dụng đất hay ban hành quyết định phong tỏa tài khoản tại ngân hàng của người phải thi hành án thì ngoài việc tuân theo các quy định về giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự, người giải quyết tố cáo còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về đất đai, ngân hàng, doanh nghiệp, ...
Theo khoản 7, Điều 2, Luật  tố cáo thì “Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.
Trong Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành không có khái niệm riêng về giải quyết tố cáo. Tuy nhiên qua khái niệm về giải quyết tố cáo trong Luật tố cáo, có thể xác định giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự có các nội hàm sau:
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là quá trình cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và cán bộ khác của cơ quan thi hành án dân sự có vi phạm pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước bởi qua hoạt động giải quyết tố cáo, cơ quan có thẩm quyền đưa ra kết luận về hành vi vi phạm bị tố cáo và đưa ra các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật.
Do sự đa dạng, phức tạp của các hành vi bị tố cáo có thể là hành vi vi phạm pháp luật thi hành án, pháp luật  hành chính, pháp luật  hình sự...nên việc giải quyết tố cáo được áp dụng theo những thủ tục nhất định tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Những hành vi vi phạm ở mức độ nhẹ chưa nguy hiểm cho xã hội thì được xử lý bằng biện pháp hành chính và sẽ do các cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo pháp luật về thi hành án dân sự. Còn những hành vi vi phạm nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự thì việc giải quyết được quy định theo pháp luật tố tụng hình sự và do các cơ quan tố tụng tiến hành.
Điều 157 Luật thi hành án quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong lĩnh vực thi hành án nhằm giúp người tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo, hạn chế việc đơn thư tố cáo lòng vòng, ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tố cáo. Việc giao cho các cơ quan quản lý thi hành án thực hiện công tác giải quyết tố cáo trong lĩnh vực thi hành án là do việc tố cáo phát sinh trong lĩnh vực do các cơ quan đó quản lý. Do đó, các cơ quan này có trách nhiệm giải quyết những vấn đề xảy ra trong hoạt động quản lý của mình; đồng thời, trách nhiệm này cũng bắt nguồn từ yêu cầu của bản thân hoạt động quản lý thi hành án và vai trò của hoạt động giải quyết tố cáo trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt động của hoạt động thi hành án.
Giải quyết tố cáo trong thi hành án được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ và trong thời han nhất định được pháp luật quy định. Về thời hạn giải quyết tố cáo, Luật thi hành án quy định  trong  60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày. Theo Luật thi hành án và các văn bản hướng dẫn thi hành, giải quyết tố cáo trong thi hành án  bao gồm các công việc như:  Xử lý đơn tố cáo ;  Thông báo cho người tố cáo về việc có thu lý hay không; Lập hồ sơ giải quyết tố cáo;  Xác minh nội dung tố cáo (làm việc với người tố cáo và người bị tố cáovà Cơ quan, tổ chức có liên quan, thu thập xử lý thông tin, bằng chứng, xác minh thực tế; trưng cầu giám định (nếu cần thiết).. ;  Kết luận về nội dung tố cáo:  kết quả xác minh của từng nội dung tố cáo; kết luận về nội dung tố cáo là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; nêu tố cáo sai thì do cố ý hay vô ý; kết luận về những vi phạm pháp luật khác, về thiệt hại, nguyên nhân, vai trò, trách nhiệm...và kiến nghị;  Công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; Thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Cơ quan, cán bộ có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải tuân thủ đẩy đủ các thủ tục và trong thời hạn này nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết tố cáo được tiến hành chặt chẽ, chính xác, nhanh chóng và kịp thời qua đó công tác giải quyết tố cáo sẽ đạt được hiệu quả cao trên thực tế.
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết với nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan. Quan hệ phối hợp  này bắt nguồn từ đặc điểm của tố cáo, trong đó việc tố cáo không giới hạn phạm vi, nội dung tố cáo, không giới hạn chủ thể tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo, và tính đa dạng của cơ quan đưa ra các hình thức xử lý sau khi có kết luận tố cáo...
Như vậy có thể hiểu giải quyết tố cáo là việc cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn luật định tiến hành thụ lý, kiểm tra, xác minh, đánh giá, kết luận về tính hợp pháp của hành vi của thủ trưởng, Chấp hành viên và cán bộ Cơ quan thi hành án dân sự bị tố cáo để ra quyết định giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, và của công dân, cơ quan, tổ chức khác trong quá trình thi hành án.
Giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự là việc người có thẩm quyền giải quyết tố cáo căn cứ vào pháp luật về giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự, pháp luật về tố cáo và pháp luật khác có liên quan tiến hành các hoạt động xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để kết luận nội dung công dân tố cáo là có cơ sở hay không có cơ sở.
4. Về chủ thể, đối tượng, thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự có sự vừa có điểm giống vừa có điểm khác biệt với các lĩnh vực khác
Về chủ thể tố cáo trong thi hành án dân sự giống chủ thể tố cáo trong các lĩnh vực khác. Chủ thể tố cáo (người tố cáo) trong thi hành án dân sự là công dân. Người tố cáo có các quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (không được uỷ quyền cho người khác); yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
Về đối tượng tố cáo trong thi hành án dân sự là hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Về thm quyền giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự có khác biệt về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự so với Luật Tố cáo năm 2011. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật tố cáo năm 2011, “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết”. Mới đây Luật tố cáo năm 2018 quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo tại khoản 1 Điều 12 cũng vẫn giữ nguyên quy định này.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự được quy định tại Điều 157 Luật Thi hành án dân sự. Theo quy định này thì người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết, cụ thể: Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự giải quyết tố cáo đối với Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự giải quyết tố cáo đối với Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Có sự khác biệt trên là do hoạt động thi hành án là hoạt động tư pháp, các hoạt động của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên cơ quan thi hành án đều được giám sát bởi Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án đồng thời là Chấp hành viên, thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Chấp hành viên. Mặt khác, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý của người đứng đầu cơ quan đó nên người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết tố cáo.
Về trình tự thủ tục giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 157 Luật Thi hành án dân sự và Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự (sau đây được gọi là Thông tư 02). Theo quy định này thì trình tự giải quyết tố cáo gồm các bước như sau:
Bước 1: Xử lý đơn, thụ lý tố cáo
Điều 15, Điều 16 của Thông tư 02 quy định: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, công chức nghiên cứu nội dung đơn tố cáo, đề xuất người có thẩm quyền thụ lý đơn tố cáo; trường hợp đơn chưa đủ điều kiện thụ lý thì có văn bản trả lời cho người tố cáo biết lý do hoặc hướng dẫn người tố cáo bổ sung thông tin, tài liệu liên quan đến tố cáo để được thụ lý giải quyết. Trường hợp cần kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày và quyết định thụ lý tố cáo.
Bước 2: Xác minh nội dung tố cáo
Điều 18 của Thông tư 02 quy định: Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo thành lập Đoàn xác minh nội dung tố cáo. Đoàn xác minh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên để xác minh nội dung tố cáo.
Bước 3: Báo cáo kết quả xác minh tố cáo
Điều 19 của Thông tư 02 quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc xác minh, Đoàn xác minh phải Báo cáo kết quả xác minh để xin ý kiến chỉ đạo của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Theo đó, Báo cáo được xây dựng với đầy đủ nội dung quá trình tổ chức thi hành án liên quan đến nội dung tố cáo; nội dung đơn; kết quả xác minh, làm việc các cơ quan, tổ chức liên quan, người tố cáo, ngượi bị tố cáo; nhận xét, đánh giá nội dung tố cáo của Đoàn xác minh; kết luận nội dung tố cáo và đề xuất hướng giải quyết đơn tố cáo.
Bước 4: Thông báo dự thảo kết luận nội dung tố cáo
Theo Điều 21 của Thông tư 02 thì thủ tục thông báo dự thảo kết luận nội dung tố cáo chỉ thực hiện trong trường hợp cần thiết do người có thẩm quyền giải quyết tố cáo quyết định.
Bước 5: Kết luận nội dung tố cáo
Điều 22 của Thông tư quy định: Căn cứ nội dung tố cáo, văn bản giải trình của người bị tố cáo, báo cáo kết quả xác minh tố cáo, các tài liệu, bằng chứng có liên quan, đối chiếu với các quy định của pháp luật, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ban hành kết luận nội dung tố cáo. 
Bước 6: Công khai kết luận nội dung tố cáo, thông báo nội dung kết luận tố cáo cho người tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo[1]
Bước 7: Thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo[2]
Trên thực tế không phải vụ việc tố cáo nào cũng thực hiện đầy đủ các bước nêu trên, có vụ việc không bắt buộc phải thông báo dự thảo kết luận giải quyết tố cáo theo bước 4 hoặc không có hành vi vi phạm nên không phải xử lý hành vi vi phạm tại bước 7.
Nguyễn Hằng
Vụ GQKNTC - Tổng cục THADS
 
 
[1] Điều 24 của Thông tư 02 quy định:
Việc công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo được thực hiện bằng một trong các hình thức sau: công bố tại cuộc họp cơ quan nơi người bị tố cáo công tác; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan đã giải quyết tố cáo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc đăng tải trên Cổng/Trang thông tin điện tử của cơ quan đã giải quyết tố cáo.
Trường hợp người tố cáo có yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo thì người giải quyết tố cáo gửi thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo. Thông báo kết quả giải quyết tố cáo phải nêu rõ kết luận nội dung tố cáo, việc xử lý người bị tố cáo, trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước. Điều đó, có nghĩa người giải quyết tố cáo không bắt buộc phải thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo. Tuy nhiên, trường hợp người tố cáo không yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo nhưng qua xác minh đã kết luận toàn bộ hoặc một số nội dung tố cáo là không đúng sự thật thì người giải quyết tố cáo có thể thông báo bằng văn bản cho người tố cáo biết về những nội dung người tố cáo đã tố cáo không đúng sự thật.
[2] Điều 25 Thông tư 02 quy định:
Thứ nhất, đối với người có thẩm quyền giải quyết tố cáo: Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo hoặc giao cho đơn vị đã tham mưu giải quyết tố cáo, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới thực hiện.
Thứ hai, đối với Thủ trưởng cơ quan được giao tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo phải thực hiện đúng nội dung kết luận và báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.