Kiểm tra công tác THADS tại THADS huyện Sa Pa – tỉnh Lào Cai.

17/07/2008

Căn cứ Kế hoạch số 02/KHKT – THA ngày 20 tháng 01 năm 2008 của Trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai; Thực hiện Quyết định số: 11/QĐ - THA ngày 26 tháng 5 năm 2008 của Trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai về việc kiểm tra công tác Thi hành án dân sự tại Thi hành án dân sự huyện Sa Pa – tỉnh Lào Cai.



- Thời gian kiểm tra: 02 ngày từ  ngày 18 tháng 6 năm 2008 đến ngày 19 tháng 6 năm 2008.

- Phạm vi kiểm tra: Từ ngày 03 tháng 4 năm 2006 đến ngày kiểm tra.

- Nội dung kiểm tra: Kiểm tra toàn diện các mặt công tác của đơn vị như: Công tác quản lý, điều hành của đơn vị, việc quản lý điều hành hoạt động chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, công tác quản lý tài sản, tang vật và việc thu, chi các khoản tiền thi hành án dân sự, thẩm tra báo cáo thống kê.

Sau khi nghe đồng chí Trưởng Thi hành án dân sự huyện Sa Pa  - tỉnh Lào Cai báo cáo và Đoàn kiểm tra trực tiếp xem xét, kiểm tra hồ sơ, sổ sách, kho quỹ và các tài liệu có liên quan, Đoàn kiểm tra kết luận như sau:

1. Về công tác quản lý điều hành.

Qua kiểm tra thực tế công tác quản lý, điều hành của đồng chí Trưởng thi hành án dân sự huyện Sa Pa. Đoàn kiểm tra nhận thấy: Cán bộ công chức trong toàn đơn vị có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, nội bộ cơ quan đoàn kết. Đơn vị đã xây dựng kế hoạch công tác năm 2008 và kế hoạch phát động thi đua khen thưởng, cũng như quy trình tiếp công dân cụ thể, duy trì họp cơ quan theo định kỳ.

Tồn tại: Cán bộ trong đơn vị chưa chịu khó nghiên cứu tài liệu, việc quản lý của thủ trưởng đơn vị trong việc giải quyết thi hành án chưa được sát sao.   

Về thực hiện nội quy quy chế cơ quan: Thực hiện giờ làm việc đúng quy định toàn thể cán bộ trong cơ quan thực hiện nghiêm túc nội quy cơ quan.

Đơn vị đã lập đầy đủ các loại sổ sách như: Sổ nghị quyết họp cơ quan; Sổ công văn đi; Sổ công văn đến.

2. Về các loại sổ sách thi hành án:

Đơn vị đã lập đầy đủ các loại sổ sách về nghiệp vụ thi hành án theo Thông tư số 06/2007/TT - BTP ngày 05/7/2007. Các loại sổ hàng năm đã thực hiện việc kết sổ và có đóng dấu giáp lai và duyệt sử dụng của thủ trưởng đơn vị.

Tuy nhiên, một số sổ sách nghiệp vụ thi hành án ghi chép chưa được phù hợp như: Sổ ra quyết định thi hành án, quyết định tiếp tục thi hành án; Sổ ra quyết định uỷ thác thi hành án, không thuận tiện cho việc kiểm tra. Sổ thụ lý ghi kết quả thi hành còn dài dòng.

3. Kết quả kiểm tra hồ sơ từ 03/4/2006 – 18/6/2008.

Tổng số: 250 việc.

Trong đó:     - Thi hành xong hoàn toàn: 131việc.

                          - Số việc ĐC + UT + TĐ: 25 việc

- Đang thi hành: 36 việc.

                          - Hoãn thi hành án: 58 việc.

                                - Số việc còn phải thi hành: 94 việc.

Qua kiểm tra thực tế 250 việc của Thi hành án dân sự huyện Sa Pa từ ngày 03/4/2006 đến ngày 18/6/2008. Đoàn kiểm tra có một số nhận xét sau:

* Trình tự thủ tục nhận Bản án , ra quyết định thi hành án.

Nói chung việc giao nhận Bản án, tiếp nhận đơn yêu cầu và ra quyết định thi hành án đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sau: Hầu hết khi ra quyết định thi hành án đơn vị đều chép lại quyết định của Bản án; Ra quyết định thi hành án còn có nhiều sai sót, hình thức chưa khoa học, khó cho việc thi hành cũng như cho công tác kiểm tra; Nhận đơn yêu cầu thi hành án nhưng Bản án không có dấu giáp lai của Toà án.

* Việc lập hồ sơ thi hành án và tổ chức thi hành án.

  Hồ sơ thi hành án thể hiện được toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án. Việc ghi chép hồ sơ nhìn chung sạch sẽ, rõ ràng. Tuy nhiên việc sắp xếp các giấy tờ trong hồ sơ không theo đúng quy định của Thông tư số 06/2007/TT - BTP ngày 05/7/2007; Quyết định thành lập Hội đồng tiêu huỷ vật chứng không có đại diện của Tài chính mà lại có đại diện của Viện kiểm sát nhân dân; Hồ sơ đã đủ điều kiện miễn giảm nhưng đơn vị không làm thủ tục miễn giảm mà lại đưa vào hoãn; Hồ sơ thiếu giấy đề nghị nhập kho tang vật; Hồ sơ chưa có phương án phân phối thu chi tiền thi hành án đối với những khoản khấu trừ tạm thu sang các khoản phải thi hành án; Đương sự có đơn không yêu cầu phần lãi suất, đơn vị không ra quyết định đình chỉ mà ra quyết định kết thúc thi hành án; Một số hồ sơ theo đơn yêu cầu là trả đất, chấp hành viên không lập bảng xác định.

* Việc thu nộp, chi trả các khoản tiền thi hành án.

Việc thu nộp, chi trả các khoản tiền thi hành án của đơn vị nói chung đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, còn tồn tại vấn đề sau: Nhập kho tiền tạm thu; Nhiều phiếu chi, người nhận tiền không ghi số tiền bằng chữ và ghi ngày tháng năm nhận tiền; Toàn bộ Biên lai thu tiền không có xác nhận của thủ trưởng đơn vị; giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước không sao y bản chính; Số tiền hoàn trả chấp hành viên không báo trả mà thu luôn vào khoản tiền phạt.

* Việc giao nhận bảo quản, xử lý tang tài vật.

                Tang tài vật được bảo quản cẩn thận, gọn gàng, khoa học. Đơn vị đã tiến hành kiểm kê kho theo định kỳ. Tuy nhiên, còn thiếu thẻ kho để theo dõi kho tang tài vật.

* Công tác chuyển giao án dưới 500.000đ cho UBND cấp xã trực tiếp đôn đốc thi hành.

Do số lượng án ít và việc chuyển giao án cho UBND xã đôn đốc thi hành không đạt được hiệu quả vì vậy từ năm 2006 đến nay cơ quan Thi hành án dân sự huyện Sa Pa không thực hiện việc chuyển giao án có giá trị không quá 500.000đ cho UBND cấp xã đôn đốc thi hành.

           4. Quản lý tài chính trong công tác nghiệp vụ thi hành án.

* Kết quả thu, chi tiền thi hành án.

+ Số thu: 372 911 651đ

- Thu cho NSNN :                        98 972 705đ

- Thu cho công dân :                  270 128 946đ

- Bồi thường CQNN:                      3 810 000đ

+ Số chi: 372 637 254đ                                                                                                                         

- Chi nộp NSNN :                         97 022 705đ

- Chi bồi thường công dân :        269 768 946đ

- Chi bồi thường CQNN:                 1 540 000đ

        + Tiền mặt tại quỹ: 10 619 700đ

            Trong đó : + Tiền bồi thường công dân :   360 000đ

                                                          + Tiền bồi thường CQNN:    2 270 000đ

                    + Tiền tạm thu :                    5 502 000đ

                         + Tồn NSNN:                        1 950 000đ

         + Phí thi hành án:                     537 700đ

* Nhận xét về chứng từ và sổ sách kế toán.

Sổ sách, chứng từ kế toán được lưu giữ cẩn thận, gọn gàng; Đơn vị đã mở các loại sổ theo quy định của chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án; Chứng từ kế toán sử dụng đúng biểu mẫu quy định của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp; Các khoản tiền thi hành án đều được lập biên lai và phiếu thu theo quy định.

                Tuy nhiên còn tồn tại một số vấn đề sau: Chứng từ kế toán lưu chưa đầy đủ như: Một số phiếu thu không kèm biên lai thu tiền; Một số biên lai thu tiền tạm ứng án phí, biên lai thu tiền tạm thu còn thiếu chữ ký của người nộp tiền. Thu tiền tạm ứng án phí không lưu thông báo của Toà án. Nhập kho tang vật tạm thu chưa có Quyết định chuyển giao vật chứng; Cách lưu chứng từ chưa đúng theo chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án; Cách ghi sổ kế toán phần diễn giải chưa rõ ràng không thuận tiện cho việc tra cứu. Biên lai thu tiền thi hành án không ghi rõ nội dung thu của đối tượng thi hành án theo QĐ thi hành án nào; Thu gộp các khoản phải thi hành án trên cùng một biên lai thu tiền; Tiền tạm giữ để đảm bảo thi hành án do Công an chuyển vào tài khoản tiền gửi trên Kho bạc Nhà nước kế toán đã xử lý chưa đúng: rút tiền mặt về quỹ sau đó làm thủ tục nộp ngân sách nhà nước, tiền hoàn trả hạch toán vào tài khoản bồi thường công dân; Một số loại chứng từ chưa được đánh số theo quy định: Giấy đề nghị chi quỹ tiền mặt, giấy đề nghị nhập kho.

5. Công tác báo cáo thống kê.

Đơn vị thực hiện đúng quy định biểu mẫu báo cáo thống kê theo Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006 về việc ban hành chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự. Đơn vị lưu đầy đủ báo cáo của các chấp hành viên, báo cáo tổng hợp của đơn vị. Đối chiếu với sổ sách nghiệp vụ số liệu  tương đối chính xác. Nhìn chung báo cáo ghi chép rõ ràng, sạch sẽ.

Qua hai ngày kiểm tra Đoàn kiểm tra đã có kết luận sơ bộ và yêu cầu đơn vị nghiêm chỉnh khắc phục một số sai sót nhỏ trong tác nghiệp thi hành án./.

Anh Tuấn