Vài suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án

15/03/2011
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (LTHADS) đã có hiệu lực thi hành được gần hai năm. Qua công tác thực tế, chúng tôi nhận thấy những điểm mới của Luật so với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 (PLTHADS) đã phát huy được hiệu quả của nó, tạo được hành lang pháp lý cho cơ quan Thi hành án cũng như Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp, góp phần tích cực trong việc giải quyết việc thi hành án được nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.


Một trong những điểm mới mà chúng tôi muốn nhắc đến ở đây là quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án (BPBĐTHA). Tại khoản 3 Điều 66 LTHADS quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án gồm các biện pháp sau:

1) Phong toả tài khoản;

2) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;

3) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.

Cũng theo quy định tại Điều 66 thì Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự.

Trước đây, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 không quy định về các BPBĐTHA. Riêng việc phong tỏa tài khoản, thì được xem là một biện pháp cưỡng chế thi hành án và được quy định tại khoản 3 Điều 37 PLTHADS. Tuy nhiên, theo chúng tôi quy định như vậy là chưa hợp lý. Thứ nhất, nó không phản ánh đúng với bản chất của việc phong tỏa tài khoản. Vì đây thực chất chỉ mới là biện pháp bảo đảm, chưa phải là biện pháp xử lý tài sản để thi hành án. Thứ hai, về mặt pháp lý nó có sự mâu thuẫn, vì cùng một đối tượng là khoản tiền trong tài khoản lại có thể bị áp dụng hai biện pháp cưỡng chế. Đó là biện pháp phong tỏa tài khoản và biện pháp khấu trừ tài khoản được quy định tại khoản 1 Điều 37 PLTHADS. Vì vậy, LTHADS đã tách hai biện pháp này thành một biện pháp bảo đảm và một biện pháp cưỡng chế là hoàn toàn hợp lý.

Việc LTHADS đã giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định về các BPBĐTHA cho thấy rõ tính cần thiết và quan trọng của các biện pháp này đối với công tác thi hành án (THA). Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có điều kiện thi hành án không. Tuy nhiên, khi đương sự có điều kiện thi hành án (có tài sản) thì chưa hẳn điều kiện đó sẽ được thi hành, nếu pháp luật không có các biện pháp bảo đảm. Vì họ có thể sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản mà họ đang có trước khi chấp hành viên tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Do đó, việc quy định BPBĐTHA là hết sức cần thiết. Nó cũng có một ý nghĩa quan trọng như các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Thực tiễn cho thấy, các biện pháp bảo đảm là một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu để thực thi hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án đạt hiệu quả trên thực tế. Với ý nghĩa đó, trong quá trình tác nghiệp các Chấp hành viên đã thường xuyên áp dụng các biện pháp này để giải quyết việc thi hành án, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho người được thi hành án.

Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về thời hạn áp dụng BPBĐTHA như sau:

Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản thì khoản 3 Điều 67 quy định “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 76 của Luật này”;

Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ, khoản 3 Điều 68 quy định “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên ra một trong các quyết định sau đây:

a) Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án;

b) Trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các bên”;

Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản, Điều 69 cũng quy định “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản”.

Xét một cách tổng thể, thì việc quy định thời hạn áp dụng BPBĐTHA như trên là hợp lý. Vì sau khi hết thời hạn đã được quy định thì Chấp hành viên buộc phải tiến hành các nghiệp vụ khác để THA. Điều này sẽ đảm bảo việc THA được tiến hành liên tục, nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Tuy nhiên, việc quy định thời hạn áp dụng BPBĐTHA với một thời hạn nhất định, không có các trường hợp ngoại lệ như trên, trong một số trường hợp thực tế đã gây ra không ít khó khăn cho Chấp hành viên khi giải quyết việc thi hành án.

Thứ nhất, sau khi áp dụng BPBĐTHA thì trong nhiều trường hợp Chấp hành viên phải tiến hành xác minh tài sản, thông tin về tài sản rồi sau đó mới quyết định có kê biên, xử lý tài sản hay không. Ví dụ: tại Điều 89 quy định “Trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký”. Trong trường hợp này thời hạn xác minh, cung cấp thông tin không phải hoàn toàn dựa vào chấp hành viên mà còn phụ thuộc vào các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin. Thực tế cho thấy việc trả lời xác minh, cung cấp thông tin cho Cơ quan thi hành án của những cơ quan có liên quan không phải lúc nào cũng nhanh chóng kịp thời. Có những trường hợp Cơ quan thi hành án phải chờ công văn trả lời của các cơ quan này trong một thời gian khá dài có khi là 2 tháng, 3 tháng và thậm chí là lâu hơn. Một ví dụ khác là trường hợp tài sản của người phải THA đang cầm cố, thế chấp. Để xử lý kê biên tài sản trong trường hợp này thì Chấp hành viên cũng phải tiến hành xác minh và nếu cần thiết còn phải tiến hành thẩm định giá để biết được tài sản đang cầm cố, thế chấp có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án hay không. Để tiến hành các công việc trên thì chắc chắn trong thời hạn 15 ngày là không thể giải quyết được.

Như vậy, trong những trường hợp trên Chấp hành viên không thể tiến hành cưỡng chế cũng như không thể ra quyết định chấm dứt áp dụng BPBĐTHA vì chưa có đủ các căn cứ cần thiết.

Thứ hai, thực tế công tác THA cho thấy không phải trường hợp nào khi đã tiến hành áp dụng BPBĐTHA cũng sẽ dẫn đến việc cưỡng chế THA. Vì mặc dù khi Chấp hành viên đã ra quyết định áp dụng BPBĐTHA, nhưng các bên đương sự vẫn có thể tiến hành các thỏa thuận về biện pháp THA và thời gian THA. Trong trường hợp các bên đương sự đã thỏa thuận được phương thức và thời gian thi hành án mà thời gian đó kéo dài hơn thời hạn áp dụng BPĐBTHA thì Chấp hành viên vẫn không thể ra quyết định cưỡng chế vì phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên đương sự, đồng thời cũng không có căn cứ để ra quyết định chấm dứt áp dụng BPBĐTHA, trừ trường hợp người được thi hành án tự nguyện yêu cầu chấm dứt áp dụng BPBĐTHA và chịu trách nhiệm về yêu cầu đó.

Từ những trường hợp trên ta thấy, vấn đề đặt ra là: thứ nhất, Chấp hành viên có vi phạm thời hạn áp dụng BPBĐTHA hay không? Thứ hai, khi đã hết thời hạn áp dụng BPBĐTHA theo luật định mà Chấp hành viên chưa có đủ căn cứ để tiến hành các bước tiếp theo, như áp dụng biện pháp cưỡng chế hay chấm dứt áp dụng BPBĐTHA, thì quyết định áp dụng BPBĐTHA có còn hiệu lực thi hành nữa hay không?

Để tránh phải giải quyết hai vấn đề trên, có nơi đã sử dụng biện pháp như sau: khi đã hết thời hạn áp dụng BPBĐTHA theo luật định, thì Chấp hành viên ra một công văn duy trì hiệu lực của quyết định áp dụng BPBĐTHA cho đến khi có đủ căn cứ xử lý tài sản.

Theo chúng tôi, cách giải quyết trên chỉ là giải pháp tình thế không có căn cứ pháp lý rõ ràng. Thiết nghĩ, để giải quyết những vấn đề đã nêu một cách triệt để, thì pháp luật thi hành án dân sự cần có những quy định mở, những trường hợp ngoại lệ đối với thời hạn áp dụng BPBĐTHA để tạo một hành lang pháp lý rõ ràng hơn, nhằm tạo điều kiện cho Chấp hành viên có cơ sở giải quyết việc thi hành án đúng pháp luật, đồng thời cũng để phát huy tối đa hiệu quả của các biện pháp bảo đảm thi hành án.

Hồ Quân Chính