Bán tài sản sở hữu chung để thi hành án

07/07/2014
Vợ chồng lấy nhau không đăng ký kết hôn, người vợ phải thi hành án số tiền 493.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án. Chấp hành viên xác định nhà và quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ, chồng nên đã tiến hành cưỡng chế kê biên, bán đấu giá nhà và quyền sử dụng đất để thi hành án. Sau khi bị cưỡng chế, người chồng khiếu nại không thành, đã khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung theo thông báo chia tài sản chung của chấp hành viên. Kết quả giải quyết của Tòa án, người chồng được quyền sở hữu, sử dụng nhà, quyền sử dụng đất và có nghĩa vụ thanh toán gía trị tài sản cho vợ và trả nợ ngân hàng. Cơ quan Thi hành án dân sự vẫn tổ chức cưỡng chế và bán tài sản để thi hành án. Người chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản thành. Vụ án đã được Tòa án thụ lý, đang tiến hành giải quyết. Xung quanh việc bán tài sản chung để thi hành án có nhiều quan điểm khác nhau về giải quyết vụ việc. Để tiện việc theo dõi, trao đổi chúng tôi tóm tắt vụ việc sau đây.


Nội dung vụ việc:

Ông P và bà N lấy nhau năm 1987, đến nay không đăng ký kết hôn. Bà N phải thi hành 05 quyết định thi hành án, với tổng số tiền phải trả công dân là 493.000.000 đồng. Chấp hành viên xác định nhà và quyền sử dụng đất (nhà gắn liền với đất ở) là tài sản chung giữa ông P với bà N, đã ra Thông báo số 352 ngày 30/11/2011, thông báo cho vợ chồng ông P, bà N trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo tiến hành phân chia tất cả tài sản chung vợ chồng hoặc khởi kiện ra Tòa để chia. Ngày 15/3/2012 ra Quyết định cưỡng chế kê biên nhà, quyền sử dụng đất là tài sản chung giữa bà N với ông P.

Ông P khiếu nại yêu cầu trả nhà và quyền sử dụng đất cho ông. Hai cấp Thi hành án dân sự ở tỉnh giải quyết khiếu nại, đều không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông P. Khiếu nại không thành, ông P khởi kiện ra Tòa yêu cầu chia tài sản chung. Tòa án đã thụ lý vụ án số 122/2012/TLST-HNGĐ ngày 13/6/2012.

Ngày 09/7/2012 Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 84/2012/QĐST-HNGĐ. Tại quyết định này, ông P được quyền sở hữu, sử dụng nhà và quyền sử dụng đất, ông P có quyền đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất. Ông P có nghĩa vụ trả cho bà N 375 triệu đồng tiền giá trị tài sản chung và Ngân hàng 150 triệu đồng. Bà N và ông P mỗi người phải nộp 11 triệu đồng án phí, ông P được trừ vào 05 triệu đồng tiền tạm ứng án phí theo BL số 0000903 ngày 13/6/2012, còn phải nộp 06 triệu đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trước khi có kết quả giải quyết của Tòa án, ngày 12/4/2012 chấp hành viên tiến hành tổ chức cưỡng chế nhà và quyền sử dụng đất là tài sản chung của bà N với ông P. Sau khi có kết quả giải quyết của Tòa án, ngày 01/10/2012 chấp hành viên ra Thông báo số 01, thông báo cho ông P chậm nhất đến ngày 05/10/2012 phải nộp 375 triệu đồng trả bà N để thi hành án và 6.000.000 đồng tiền án phí, nếu không nộp sẽ ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá. Ngày 19/10/2012 ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá.

Ngày 03/12/2013 bán đấu giá thành, với giá 959.000.000 đồng. Sau đó, ngày 13/01/2014 thông báo cho bà N giao nhà, nếu không bị cưỡng chế, ông P biết đến nhận giá trị ½ tài sản sau khi trừ hết các nghĩa vụ theo qui định. Tuy vậy, đến nay vẫn chưa giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Nhà và quyền sử dụng đất đã được Tòa án chia cho ông P, nhưng  trước sự kiên quyết cưỡng chế kê biên, bán nhà và quyền sử dụng đất để thi hành án của chấp hành viên. Ông P tiếp tục khiếu nại, tố cáo không thành. Một lần nữa ông P phải khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản thành. Ngày 03/4/2014 Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự số 91/TLST-DS, về việc "Tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản" theo đơn khởi kiện của ông P.

Xung quanh vụ việc này có nhiều ý kiến khác nhau

Có ý kiến cho rằng nhà và quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng bà N với ông P, việc chấp hành viên cưỡng chế, kê biên để đảm bảo thi hành án là đúng pháp luật. Ông P khiếu nại cho rằng nhà và quyền sử dụng đất của ông là không đúng nên không chấp nhận.

Ý kiến khác khảng định, tuy Tòa án đã chia nhà, đất cho ông P, nhưng ông P phải trả bà N 375.000.000 đồng. Nên chấp hành viên căn cứ vào Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 84/2012/QĐST-HNGĐ ngày 09/7/2012 của Tòa án, thông báo cho ông P phải nộp 375 triệu đồng trả bà N để thi hành án và 6.000.000 đồng tiền án phí là đúng, không cần phải ra quyết định thi hành án. Chấp hành viên tổ chức thi hành án đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Ý kiến khác không đồng thuận với các ý kiến trên, cho rằng chưa xác định được phần của người phải thi hành án trong tài sản sở hữu chung, Chấp hành viên cưỡng chế kê biên tài sản sở hữu chung nhà và quyền sử dụng đất là nóng vội, chưa có căn cứ. Sau khi có kết quả giải quyết của Tòa án phân chia tài sản chung, không giải quyết trả lại tài sản cho ông P, mà tiếp tục xử lý tài sản để thi hành án là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân.

Còn chúng tôi, ý kiến nào cũng phải có căn cứ, đúng pháp luật quy định, mới có cơ sở chấp nhận. Pháp luật quy định chỉ được cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án, nghiêm cấm việc lấy tài sản của người khác không liên quan đến việc thi hành án để thi hành án thay cho người phải thi hành án. Ở đây, chúng tôi chỉ trao đổi cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu chung để thi hành án đã đúng quy định của pháp luật?

Đối với vụ việc này, chấp hành viên xác định nhà và quyền sử dụng đất là tài sản sở hữu chung của bà N với ông P. Chấp hành viên đã thông báo cho vợ chồng bà N và ông P chia tài sản sở hữu chung hoặc khởi kiện ra Tòa để chia. Nhưng, vẫn cưỡng chế, bán tài sản để thi hành án.

Việc cưỡng chế nhà và quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung giữa bà N và ông P, đang có tranh chấp khiếu kiện. Để xử lý tài sản trên, trước hết cần xác định được phần tài sản của người phải thi hành án trong tài sản sở hữu chung với người khác. Ở đây, cần xác định tài sản sở hữu chung vợ chồng hay tài sản sở hữu chung giữa bà N với ông P, để áp dụng pháp luật cho chính xác trong việc xử lý tài sản để thi hành án.

Theo quy định tại điểm a, b và c khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình, thì: "Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:

a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;

c) Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết".

Vợ chồng ông P và bà N lấy nhau từ năm 1987 đến nay không đăng ký kết hôn, họ chung sống với nhau như vợ chồng. "Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng (điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình)". Theo quy định tại điều luật này, thì tài sản sở hữu chung của bà N và ông P có trong thời kỳ chung sống với nhau do hai bên cùng tạo lập không phải tài sản sở hữu chung vợ chồng. Đây là tài sản thuộc sỡ hữu chung của bà N là người phải thi hành án với với ông P. Khi có tranh chấp, áp dụng khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Khoản 3 Điều 17 điều luật này quy định: "…Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con".

Trong thi hành án dân sự thì áp dụng khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự để giải quyết, điều luật quy định: "Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. 

Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án".

Trở lại vụ việc này, trước khi cưỡng chế chấp hành viên đã ra Thông báo số 352 ngày 30/11/2011, thông báo cho các đương sự biết việc cưỡng chế là đúng đoạn đầu, khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, quy định: "Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế".

Như vậy, chưa xác định phần tài sản của bà N, người phải thi hành án trong khối tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất với ông P. Đã quá thời hạn 30 ngày, các đương sự chưa khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung. Người được thi hành án, chấp hành viên không yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án theo qui định khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Ngày 15/3/2012 ra Quyết định cưỡng chế kê biên nhà, quyền sử dụng đất là tài sản chung giữa bà N với ông P là chưa đúng. Khoản 1 Điều 74 luật Thi hành án dân sự, quy định: "… Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án".

Ông P khiếu nại, trong khi chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Ngày 12/4/2012 chấp hành viên tiến hành tổ chức cưỡng chế nhà, quyền sử dụng đất là tài sản sở hữu chung của bà N với ông P. Sau đó, hai cấp Thi hành án dân sự giải quyết khiếu nại không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông P. Việc giải quyết khiếu nại, chúng tôi chưa trao đổi ở bài viết này.

Chưa xác định được phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác, mà tổ chức cưỡng chế là chưa đúng các quy định của pháp luật như viện dẫn ở trên.

Khiếu nại không thành, ông P tiếp tục khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản sở hữu chung. Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự số 122/TLST-HNGĐ ngày 13/6/2012. Như vậy, tài sản bị cưỡng chế kê biên đang bị tranh chấp, đã được Tòa án thụ lý và đang tiến hành giải quyết. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự phải ra quyết định hoãn thi hành án để chờ kết quả giải quyết của Tòa án. Nhưng việc thi hành án vẫn tiếp tục tiến hành các bước tiếp theo, là không đúng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.

Kết quả giải quyết của Tòa án tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 84/2012/QĐST-HNGĐ ngày 09/7/2012. Theo quyết định này, ông P được quyền sở hữu, sử dụng nhà và quyền sử dụng đất, ông P có quyền đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất. Ông P có nghĩa vụ trả cho bà N 375 triệu đồng tiền giá trị tài sản chung và Ngân hàng 150 triệu đồng. Bà N và ông P mỗi người phải nọp 11 triệu đồng án phí, ông P được trừ vào 05 triệu đồng tiền tạm ứng án phí theo BL số 0000903 ngày 13/6/2012, còn phải nộp 06 triệu đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Như vậy, kết quả giải quyết của Tòa án đã có, tài sản bị cưỡng chế kê biên đã được Tòa án chia cho ông P. Ông P có toàn quyền sở hữu, sử dụng tài sản này theo qui định của pháp luật. Căn cứ vào kết quả giải quyết của Tòa án và căn cứ quy định của pháp luật cơ quan Thi hành án dân sự giải quyết trả lại tài sản cho ông P và tiếp tục tổ chức thi hành án đối với bà N theo quy định của pháp luật. Chấp hành viên tiến hành xác minh, làm rõ ông P đã trả cho bà N 375 triệu đồng tiền giá trị tài sản chung hay chưa. Nếu chưa trả, thì căn cứ vào Điều 81 Luật Thi hành án dân sự chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án. Nếu hai bên đã trả cho nhau, yêu cầu bà N phải nộp số tiền đó để thi hành án. Nếu số tiền đó không còn, căn cứ vào Điều 44 Luật Thi hành án dân sự chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án biết, tài sản (nhà và quyền sử dụng đất) họ cung cấp đã được Tòa án chia cho ông P, không còn để thi hành án đối với bà N. Yêu cầu người được thi hành án tiếp tục xác minh điều kiện thi hành án của bà N, nếu phát hiện bà N có tài sản khác cung cấp cho cơ quan Thi hành án biết để tiếp tục thi hành án đối với bà N hoặc có đơn yêu cầu chấp hành viên xác minh. Hết thời hạn quy định mà người được thi hành án không thực hiện hoặc xác minh cho thấy bà N không có điều kiện thi hành án thì cơ quan Thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu thi hành án theo quy định tại Điều 51 Luật Thi hành án dân sự.

Ngược lại, ngày 01/10/2012 chấp hành viên ra Thông báo số 01, thông báo cho ông P chậm nhất đến ngày 05/10/2012 phải nộp 375 triệu đồng trả bà N để thi hành án và 6.000.000 triệu đồng án phí, nếu không nộp sẽ ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá. Ngày 19/10/2012 ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 84/2012/QĐST-HNGĐ ngày 09/7/2012 của Tòa án là căn cứ để Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án chủ động, phần án phí. Chưa ra quyết định thi hành án mà thông báo cho ông P nộp các khoản nói trên là không có căn cứ (ngày 24/10/2012 mới ra Quyết định số 78 chủ động đưa bản án ra thi hành, "Sau 23 ngày"). Còn phần thi hành án cho công dân, khi nào có đơn yêu cầu thi hành án theo qui định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự thì mới ra quyết định thi hành án theo đơn. Bà N chưa có đơn yêu cầu thi hành án, đương nhiên chưa có quyết định thi hành án. Chấp hành viên không ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án. Thông báo cho ông P nộp số tiền 375 triệu đồng trả bà N là không có căn cứ, trái pháp luật quy định.

Ngày 03/12/2013 bán đấu giá thành, với giá 959 triệu đồng. Ngày 13/01/2014 thông báo cho bà N giao nhà, nếu không bị cưỡng chế, ông P biết đến nhận giá trị ½ TS sau khi trừ hết các nghĩa vụ theo quy định.

Kể từ ngày có quyết định của Tòa án, nhà và quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông P. Ông P có toàn quyền đối với tài sản của mình và được pháp luật bảo vệ. Ông P đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BK 266956 ngày 27/5/2013. Bà N không còn quyền sở hữu chung tài sản này nữa, theo quy định của pháp luật, bà N không còn bất cứ quyền gì đối với tài sản là nhà và quyền sử dụng đất đã chia cho ông P.

Chấp hành viên thông báo cho bà N giao nhà, đất làm cho bà N "Bí" không biết lấy đâu ra để giao. Tài sản là của ông P, ông P không liên quan đến việc thi hành án của bà N. Thông báo như vậy là không có căn cứ, không đúng pháp luật.

Như phân tích ở trên, chấp hành viên cưỡng chế kê biên bán tài sản sở hữu chung nói ở trên để thi hành án, là không đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự, về việc "Tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản" theo đơn khởi kiện của ông P. Theo chúng tôi, cơ quan Thi hành án dân sự, theo quy định của pháp luật phải ra quyết định hoãn thi hành án, chờ kết quả giải quyết của Tòa án.

Phạm Công Ý