Xác định thế nào cho đúng trường hợp từ chối yêu cầu thi hành án nếu bản án không xác định cụ thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải thi hành

26/08/2016
Tại khoản 4 Điều 7 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự quy định: Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định không xác định cụ thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải thi hành”.
 


Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật trước đó chưa quy định cụ thể trường hợp trên cơ quan thi hành án dân sự được quyền từ chối yêu cầu thi hành án. Có trường hợp cơ quan thi hành án dân sự lúng túng trong việc xác định có ra quyết định thi hành án đối với trường hợp này hay không, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, đương sự khiếu nại. Việc giải quyết khiếu nại chấp nhận hay không chấp nhận khiếu nại của đương sự đòi hỏi xác định thế nào cho đúng trường hợp cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án nếu bản án, quyết định không xác định cụ thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải thi hành. Dưới đây là một trường hợp từ thực tiễn thi hành án dân sự.
1. Nội dung vụ việc
Bản án của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh T xét xử, quyết định:
- Công nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V tại thửa đất số 4 tờ bản đồ số 9 tại thôn 8 xã H, huyện M, tỉnh T được Nhà nước cấp GCNQSD đất số Đ 468307 ngày 30/9/2004. Ranh giới thửa đất của hai gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á được xác định: 
+ Cạnh đất phía Tây Nam nhà ông T được kéo từ góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp thửa đất nhà ông Bùi Đình N kéo về phía Đông thửa đất tiếp giáp ranh ruộng canh tác dài 37,6m. Cạnh vị trí cây Mác 30cm về phía Đông Nam (khoảng giữa cạnh móng hố tiêu nhà ông L) kéo về phía Đông Nam tiếp giáp đường giao thông dài 13,2m là đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nhà ông Lê Văn L và bà Vũ Thị Á, kéo về phía Đông Bắc tiếp giáp đất nhà ông C (thửa đất số 347) dài 48m là cạnh đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông T, bà V.
+ Cạnh ranh giới đất giữa hai gia đình ông T và ông L trồng 06 cây Mác và 01 cây Nhớt là cây thuộc quyền quản lý của gia đình ông T, bà V nhưng ông T bà V phải có trách nhiệm đốn chặt nếu thân cây, cành lá đổ ngã về phía đất thuộc quyền sử dụng của nhà ông L, bà Á.
- Buộc ông Lê Văn L phải san lấp trả lại mặt bằng hiện trạng ban đầu cho ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V. Trường hợp không khắc phục san lấp thì phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tiền tương ứng khối lượng san lấp = 5,3m3 x 333.000đ/m3 = 178.000.000đ (Một trăm bảy mươi tám triệu đồng); Buộc ông Lê Văn L phải bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn T 02 cây Mác theo giá trị bằng tiền là: 360.000đ (Ba trăm sáu mươi nghìn đồng).  
2. Quá trình thi hành án
Bản án có hiệu lực pháp luật, căn cứ đơn yêu cầu thi hành án của ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á, ngày 27/01/2015 Chi cục trưởng Chi Cục Thi hành án dân sự huyện M đã ban hành Quyết định thi hành án số 12/QĐ-CCTHA theo nội dung quyết định của Bản án nêu trên và trực tiếp tổ chức thi hành.
Quá trình thi hành án, Chấp hành viên đã tiến hành các trình tự, thủ tục tống đạt quyết định thi hành án cho đương sự theo quy định pháp luật. Đồng thời, phối hợp với UBND xã H, gồm: Cán bộ Tư pháp, Công an và đại diện thôn 8 tiến hành xác minh hiện trạng thửa đất, các vị trí mốc giới giữa hai gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á.
Ngày 04/02/2015, Chấp hành viên phối hợp với chính quyền địa phương, các bộ phận chuyên môn của UBND xã H tiến hành xác định ranh giới đất cho hai gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á. Việc xác định mốc giới, ranh giới đất giữa hai gia đình được lập biên bản, có chữ ký của ông Nguyễn Văn T và ông Lê Văn L cũng như toàn bộ các thành phần tham gia (ông T có ghi ý kiến trong biên bản: ông không nhất trí với việc xác định ranh đất). Quá trình xác định mốc giới, ranh giới đất để bàn giao cho hai hộ gia đình, Chấp hành viên thấy có 03 cây Mác của gia đình ông Nguyễn Văn T có phần thân cây, cành cây đỗ ngã về phía đất nhà ông L nên Chấp hành viên đã yêu cầu gia đình ông T chặt đốn cây và đã được gia đình ông T tự nguyện thực hiện.
Cùng ngày 04/02/2015, ông Lê Văn L đã nộp 178.360.000đ tiền khắc phục san lấp mặt bằng và bồi thường 02 cây Mác cho gia đình ông Nguyễn Văn T theo quyết định của Bản án. Chấp hành viên đã thông báo cho ông Nguyễn Văn T đến Chi Cục Thi hành án dân sự huyện M để nhận số tiền trên nhưng ông T không đến nhận tiền.
3. Khiếu nại
Không nhất trí với việc ra quyết định thi hành án và việc xác định ranh đất của Chấp hành viên đồng thời là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, ông T gửi đơn đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh T. Đơn của ông T có nội dung khiếu nại Quyết định thi hành án số 12/QĐ-CCTHA ngày 27/01/2015 của Chi cục trưởng Chi Cục Thi hành án dân sự huyện M và việc xác định ranh đất của Chấp hành viên.
4. Các quan điểm khác nhau
- Thứ nhất, về việc ra quyết định thi hành án.
Quan điểm của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M, UBND xã H:
Chi cục Thi hành án dân sự huyện M ra quyết định thi hành án đúng với quyết định của bản án. Khi Chấp hành viên tổ chức thi hành án xác định ranh giới đất giữa gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và gia đình ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á có bộ phận chuyên môn của UBND xã H tham gia xác định mốc giới. Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì bản án có hiệu lực pháp luật phải được tổ chức thi hành.
Đại diện Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M có ý kiến: Theo quy định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại khoản 3 Điều 100 Luật đất đai 2013 thì hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định này, thì chỉ cần bản án tuyên xác định ranh đất thì UBND huyện sẽ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T. Tuy nhiên, tại địa phương có một số trường hợp khi có bản án, UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người dân khiếu kiện. Do đó, nếu cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, tổ chức thi hành án, căn cứ văn bản của cơ quan thi hành án dân sự UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự sẽ tránh được việc đương sự không khiếu kiện.
Một số ý kiến khác cho rằng: Theo quy định tại Điều 7 và khoản 1 Điều 34 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, bản án của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh T xét xử, quyết định: Công nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V; Xác định ranh giới thửa đất của hai gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á. Quyết định của Tòa án không tuyên nghĩa vụ cụ thể cho các bên đương sự, không xác định bên được thi hành án cũng như bên phải thi hành án. Đồng thời, cơ quan thi hành án dân sự không có chức năng, thẩm quyền xác định ranh đất. Việc xác định ranh đất thuộc thẩm quyền của các cơ quan chuyên môn của UBND xã H và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M. Do đó, trường hợp này Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện M không ban hành quyết định thi hành án.
- Thứ hai, về việc xác định ranh đất.
Ông T khiếu nại Chấp hành viên việc tổ chức thi hành án không đúng với nội dung về mốc giới, ranh giới đất mà Tòa án đã tuyên, không sử dụng sơ đồ đo, vẽ hiện trạng của Tòa án để tổ chức thi hành án, cụ thể: Theo sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án thì mốc chung giữa đất ba nhà, mốc giới thửa đất của ông T với thửa đất nhà ông L phía Đông giáp ruộng canh tác là 3 mốc cùng nằm trên đường ranh giới giữa thửa đất nhà ông T với thửa đất nhà ông N (mép tường đầu nhà ông N) và nhà ông L. Mốc giới giữa 3 nhà nằm trên đường thẳng. Tuy nhiên, Chấp hành viên lại xác định mốc giới theo đường gấp khúc. Chấp hành viên xác định mốc giới là đỉnh góc nhà chăn nuôi của nhà ông L cách mép tường đầu nhà ông N 0,20m là không đúng sơ đồ đo, vẽ hiện trạng của Tòa án.     
Quan điểm của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M, UBND xã H: Việc tổ chức thi hành án xác định ranh đất là đúng quyết định của bản án, cụ thể:
Ngày 04/02/2015, Chấp hành viên phối hợp với chính quyền địa phương, các bộ phận chuyên môn của UBND xã H (Đại diện chính quyền địa phương; Cán bộ địa chính; Tư pháp; Công an) tiến hành xác định ranh giới đất cho hai gia đình ông Nguyễn Văn T và ông Lê Văn L. Căn cứ các vị trí mốc giới, ranh giới đã được Bản án xác định, Chấp hành viên cùng lực lượng chuyên môn tham gia đã trực tiếp căng dây, cắm cọc để xác định ranh giới đất cho hai hộ gia đình, cụ thể: Cạnh đất phía Tây Nam nhà ông T được kéo từ góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp thửa đất nhà ông Bùi Đình N kéo về phía Đông thửa đất tiếp giáp ranh ruộng canh tác dài 37,6m là đúng nội dung quyết định của Bản án. Việc xác định mốc giới, ranh giới đất giữa hai gia đình được thực hiện công khai, khách quan, đúng thực tế và được lập biên bản, có chữ ký của ông Nguyễn Văn T và ông Lê Văn L cũng như toàn bộ các thành phần tham gia.
Một số ý kiến khác cho rằng: Theo quyết định của bản án xác định cạnh đất phía Tây Nam nhà ông T được kéo từ góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp thửa đất nhà ông Bùi Đình N kéo về phía Đông thửa đất tiếp giáp ranh ruộng canh tác dài 37,6m. Tuy nhiên, theo sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án thì phần thửa đất nhà của ông N (không có ngôi nhà) và phần nhà chăn nuôi nhà ông L thẳng hàng, sơ đồ không thể hiện mốc giới là góc nhà chăn nuôi của nhà ông L tiếp giáp với mép tường đầu nhà ông N. Như vậy, quyết định của Bản án và sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án là không thống nhất, chưa rõ về mốc giới. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, cơ quan thi hành án dân sự cần có văn bản đề nghị Tòa án giải thích trước khi tổ chức thi hành án.
5. Hướng giải quyết
Trong vụ việc này có 02 vấn đề phải giải quyết đó là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện M có thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với nội dung xác định ranh giới đất giữa hai gia đình ông Nguyễn Văn T và ông Lê Văn L hay không? Trường hợp ra quyết định thi hành án thì việc tổ chức thi hành xác định ranh giới đất theo quyết định của Bản án và sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án như thế nào?
Tác giả thấy rằng hướng giải quyết 02 vấn đề trên nên như sau:
Thứ nhất, về việc ra quyết định thi hành án: Mặc dù phần đầu quyết định của Bản án xét xử, quyết định: Công nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V; Xác định ranh giới thửa đất của hai gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Lê Thị V và ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á, ….  không xác định cụ thể người được thi hành án, người phải thi hành án. Tuy nhiên, phần sau quyết định của của Bản án có nội dung: Buộc ông Lê Văn L phải san lấp trả lại mặt bằng hiện trạng ban đầu cho ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V. Trường hợp không khắc phục san lấp thì phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tiền tương ứng khối lượng san lấp = 5,3 m3 x 333.000đ/m3 = 178.000.000đ (Một trăm bảy mươi tám triệu đồng); Buộc ông Lê Văn L phải bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn T 02 cây Mác theo giá trị bằng tiền là: 360.000đ (Ba trăm sáu mươi nghìn đồng). Như vậy, xem xét vụ việc một cách tổng thể có thể xác định ông Lê Văn L là người phải thi hành án, ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị V là người được thi hành án. Mặt khác, thời điểm Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện M ban hành quyết định thi hành án là trước khi Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự được ban hành. Do đó, căn cứ Bản án và đơn yêu cầu thi hành án của ông Lê Văn L, bà Vũ Thị Á, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện M ban hành quyết định thi hành án được chấp nhận là phù hợp với nội dung bản án, đúng Điều 2, Điều 7, khoản 1 Điều 35 và khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Trường hợp này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo hướng không chấp nhận khiếu nại của ông T, giữ nguyên Quyết định thi hành án số 12/QĐ - CCTHA ngày 27/01/2015 của Chi cục trưởng Chi Cục Thi hành án dân sự huyện M.
Thứ hai, về việc xác định ranh đất: Tác giả đồng tình với ý kiến cho rằng theo quyết định của Bản án xác định: Cạnh đất phía Tây Nam nhà ông T được kéo từ góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp thửa đất nhà ông Bùi Đình N kéo về phía Đông thửa đất tiếp giáp ranh ruộng canh tác dài 37,6m. Tuy nhiên, theo sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án thì phần thửa đất nhà của ông N (không có ngôi nhà) và phần nhà chăn nuôi nhà ông L thẳng hàng, sơ đồ không thể hiện mốc giới là góc nhà chăn nuôi của nhà ông L tiếp giáp với mép tường đầu nhà ông N. Nếu xác định mốc giới cạnh đất phía Tây Nam nhà ông T được kéo từ góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp với mép tường đầu nhà ông Bùi Đình N kéo về phía Đông thửa đất tiếp giáp ranh ruộng canh tác dài 37,6m thì phải tháo dỡ bức tường nhà chăn nuôi của ông L nhưng Bản án lại không tuyên tháo dỡ bức tường này. Nếu xác định mốc giới là góc nhà chăn nuôi phía Tây nhà ông L tiếp giáp với thửa đất nhà ông N thì khoảng cách giữa mép tường đầu nhà ông N đến góc nhà chăn nuôi nhà ông L là khoảng 20cm kéo dài về phía Tây của thửa đất nhà ông N có phải là đất của nhà ông N không?
Tác giả thấy rằng quyết định của Bản án và sơ đồ đo vẽ hiện trạng đất của Tòa án là không thống nhất. Trường hợp này, để có căn cứ rõ ràng thực hiện việc xác định ranh đất, đồng thời để có cơ sở giải quyết khiếu nại của ông T, Chi cục Thi hành án dân sự huyện M cần có văn bản đề nghị Tòa án giải thích.
Nguyễn Hằng