Một số giải pháp khắc phục tình trạng đương sự trốn đóng phí thi hành án dân sự

08/10/2025


Trong những năm qua, công tác Thi hành án dân sự (THADS) đạt được nhiều kết quả tích cực, các cơ quan THADS trên phạm vi cả nước đã tổ chức thi hành đầy đủ, kịp thời các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi hành án dân sự vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, trong đó nổi lên tình trạng đương sự trốn tránh nghĩa vụ nộp phí thi hành án dân sự. Hệ quả của việc trốn đóng phí thi hành án đã gây thất thu cho ngân sách Nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS và tạo môi trường dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, tiềm ẩn nguy cơ Chấp hành viên dung túng, tiếp tay cho vi phạm. Việc trốn đóng phí THADS cũng ảnh hưởng đến niềm tin vào sự nghiêm minh của pháp luật, người dân chứng kiến việc “né phí” dễ dẫn đến tâm lý coi thường pháp luật, hình thành tiền lệ xấu trong việc tuân thủ nghĩa vụ với Nhà nước.
1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm nộp phí thi hành án dân sự
Vấn đề thu phí thi hành án dân sự được quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 (sau đây gọi tắt là Luật THADS); Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự (gọi tắt là Thông tư số 216/2016/TT-BTC).
Pháp luật hiện hành quy định “phí thi hành án là khoản tiền mà người được thi hành án phải nộp khi nhận được tiền, tài sản theo bản án, quyết định” (khoản 7 Điều 3 Luật THADS) và “người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành” (khoản 2 Điều 3 Luật THADS). Như vậy người có trách nhiệm nộp phí thi hành án dân sự là người được thi hành án. Điều 60 Luật THADS quy định “Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự”. Tại Điều 3 Thông tư số 216/2016/TT-BTC quy định: “Cơ quan THADS là tổ chức thu phí thi hành án dân sự”. Theo đó cơ quan THADS nơi tổ chức thi hành vụ việc, nơi chi trả tiền, tài sản cho người được thi hành án là cơ quan có trách nhiệm thu phí thi hành án. Đối với mức phí thi hành án được quy định cụ thể tại Điều 4 Thông tư số 216/2016/TT-BTC. Thông tư số 216/2016/TT-BTC cũng quy định các trường hợp không phải chịu phí THADS, trong đó tại khoản 8 Điều 6 quy định không thu phí THADS trong trường hợp: “Tiền, tài sản mà đương sự tự nguyện thi hành trong thời hạn tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật THADS. Theo Điều 45 Luật THADS, thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hoặc nhận được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
Như vậy, theo quy định hiện hành, người được thi hành án chỉ phải nộp phí thi hành án dân sự trong trường hợp sau thời gian 10 ngày tự nguyện thi hành án, người được thi hành án nhận được tiền, tài sản.
2. Nhận diện lỗ hổng pháp lý để đương sự lách luật, trốn đóng phí thi hành án dân sự
Việc trốn đóng phí THADS hiện nay xuất phát từ kẽ hở trong quy định của pháp luật. Cụ thể là, tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS quy định đình chỉ thi hành án trong trường hợp: “Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba”. Cùng với đó, tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể: “Trường hợp cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án mà đương sự thoả thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS tiếp tục thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành đối với nội dung thoả thuận đó theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS”.
Từ những quy định nêu trên cho thấy, sau khi cơ quan THADS ra quyết định thi hành án và hết thời hạn 10 ngày tự nguyện thi hành án, nếu người được thi hành án tự đề nghị cơ quan THADS đình chỉ thi hành án hoặc các đương sự có thoả thuận ngầm về việc thi hành án và yêu cầu đình chỉ thi hành án thì cơ quan THADS sẽ không thu được phí thi hành án dân sự. Tuy nhiên, tình trạng trốn đóng phí thi hành án đã và đang diễn ra ở các cơ quan THADS trên phạm vi cả nước do lỗ hổng trong quy định của pháp luật về THADS.
Phân tích một số vụ việc thực tế tại THADS tỉnh A để nhận diện lỗ hổng pháp lý, tạo kẽ hở cho đương sự lách luật, trốn tránh đóng phí thi hành án:
Vụ việc thứ nhất:
Theo Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2024 của Chi cục trưởng Chi cục THADS thành phố B, tỉnh A (nay là Phòng THADS Khu vực 1 – tỉnh A), bà Nguyễn Thị A có trách nhiệm trả cho bà Chế Thị B số tiền 126.500.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án. Ngày 09/09/2025, bà Chế Thị B làm Đơn xin rút đơn yêu cầu thi hành án gửi Phòng Thi hành án dân sư Khu vực 1 – tỉnh A với nội dung: “không yêu cầu Phòng THADS Khu vực 1 – tỉnh A thi hành đối với bà Nguyễn Thị A đối với số tiền 126.500.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án theo quy định”.
Vụ việc thứ hai:
Theo Quyết định thi hành án số 248/QĐ-CCTHADS ngày 05/01/2022 của Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện C, tỉnh A (nay là Phòng THADS Khu vực 7 – tỉnh A), bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Đinh Thị X số tiền 127.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án. Ngày 25/08/2025, bà Đinh Thị X làm Đơn yêu cầu đình chỉ toàn bộ nghĩa vụ thi hành án gửi Phòng Thi hành án dân sư Khu vực 7 – tỉnh A với nội dung: “đề nghị Phòng THADS Khu vực 7 – tỉnh A đình chỉ toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đối với Quyết định thi hành án số 248/QĐ-CCTHADS ngày 05/01/2022” .
Nghiên cứu hồ sơ các vụ việc nêu trên cho thấy, trong hồ sơ trình Lãnh đạo THADS tỉnh A xem xét, ký ban hành Quyết định đình chỉ thi hành án có: bản án, quyết định thi hành án, đơn xin rút yêu cầu thi hành án hoặc đơn đề nghị đình chỉ thi hành án. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS có thể ra quyết định đình chỉ thi hành án vì “người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định” (nếu không phát hiện việc đình chỉ sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba).
Từ các vụ việc nêu trên cho thấy kẽ hở trong quy định của pháp luật để đương sự lách luật, trốn đóng phí thi hành án dân sự. Có thể xảy ra các trường hợp sau:
(i) Trường hợp thứ nhất:
Người được thi hành án và người phải thi hành án thoả thuận ngầm với nhau về việc trả tiền, tài sản không thông qua cơ quan THADS. Sau đó, người được thi hành án viết đơn xin rút yêu cầu thi hành án và đề nghị đình chỉ thi hành án. Số tiền lẽ ra phải đóng phí thi hành án sẽ được các bên đương sự thoả thuận chia nhau.
(ii) Trường hợp thứ hai:
Chấp hành viên tiếp tay, cấu kết với đương sự, biết rõ hoặc chứng kiến việc các đương sự đã trao nhận, tiền tài sản nhưng thông đồng để hợp thức hồ sơ là các đương sự chưa trao nhận, tiền, tài sản. Sau khi đình chỉ thi hành án sẽ chia nhau số tiền phí thi hành án lẽ ra phải nộp ngân sách nhà nước.
(iii) Trường hợp thứ ba:
Người phải thi hành án đã trả tiền, tài sản nhưng Chấp hành viên cấu kết với người được thi hành án viết đơn xin rút yêu cầu thi hành án. Sau đó Chấp hành viên hợp thức hồ sơ (bỏ ra ngoài các biên bản, tài liệu liên quan đến việc trả tiền, tài sản) để trình Lãnh đạo cơ quan THADS ký quyết định đình chỉ thi hành án. Số tiền phí lẽ ra phải đóng sẽ được chung chia giữa Chấp hành viên và người được thi hành án.
Có nhiều nguyên nhân khiến tình trạng này đã và đang diễn ra tại các cơ quan THADS trên phạm vi cả nước. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là khiếm khuyết trong quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS đã tạo kẽ hở cho đương sự lách luật để trốn đóng phí thi hành án. Cụ thể: Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS quy định đình chỉ thi hành án trong trường hợp: “Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba”. Từ  “hoặc” trong quy phạm pháp luật nêu trên là chưa phù hợp với thức tiễn, tiềm ẩn nguy cơ tạo kẽ hở cho người được thi hành án lách luật. Vì từ “hoặc” này đã cho phép người được thi hành án không cần thoả thuận trao đổi, thống nhất với người phải thi hành án mà có thể đơn phương gửi văn bản yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ thi hành nghĩa vụ thi hành án. Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp hai bên đương sự tự thoả thuận, thanh toán xong nghĩa vụ thi hành án mà cơ quan THADS, Chấp hành viên không biết. Nếu người được thi hành án báo cho Chấp hành viên biết việc đã được thanh toán số tiền, tài sản thi hành án thì họ sẽ phải nộp phí thi hành án. Do đó, người được thi hành án có thể lợi dụng quy định về quyền đơn phương rút đơn yêu cầu thi hành án (mà không cần phải có văn bản thoả thuận của hai bên đương sự) và đề nghị đình chỉ thi hành án để không phải đóng phí thi hành án.
Tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định “Trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự thoả thuận thi hành án. Thoả thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thoả thuận, thời hạn thoả thuận, thời hạ thực hiện nội dung đã thoả thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Đương sự phải chịu trách nhiệm về nội dung thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án”. Quy định nêu trên được hiểu là, khi cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án rồi, nếu như đương sự muốn yêu cầu đình chỉ thi hành án thì bắt buộc phải có văn bản thoả thuận. Tuy nhiên, Luật THADS lại quy định “mở” hơn, có thể đình chỉ thi hành án khi đương sự có văn bản thoả thuận hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ như đã phân tích ở trên. Sự không thống nhất giữa Luật và Nghị định đã tạo ra kẽ hở pháp luật để người được thi hành án lách luật, họ tự nộp đơn xin rút Đơn yêu cầu thi hành án và đề nghị đình chỉ thi hành án để trốn đóng phí thi hành án. Bên cạnh đó, pháp luật về THADS chỉ mới quy định chung chung về việc đương sự phải chịu trách nhiệm về nội dung thoả thuận mà không có điều khoản nào ràng buộc trách nhiệm của đương sự phải có văn bản cam kết rằng yêu cầu cầu đình chỉ thi hành án của họ không làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng trốn đóng phí thi hành án là do thiếu quy định về cơ chế giám sát đối với các thoả thuận đình chỉ thi hành án đối với các khoản tiền, tài sản thi hành án có giá trị lớn. Tại khoản 4 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: “khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thoả thuận trong trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này” (Khoản 2, khoản 3 là trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án, đang tổ chức thi hành án thì đương sự thoả thuận). Như vậy, Chấp hành viên chỉ tham gia chứng kiến thoả thuận thi hành án khi đương sự có yêu cầu. Quy định này tạo ra kẽ hở để các đương sự thoả thuận ngầm với nhau mà không có sự giám sát của Chấp hành viên, nhất là đối với thoả thuận yêu cầu đình chỉ thi hành các vụ việc có số tiền, tài sản giá trị lớn, kèm theo đó là phí thi hành án phải nộp không hề nhỏ. Chẳng hạn, tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 216/2016/TT-BTC quy định: “số tiền, giá trị tài sản thực nhận trên 15.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án dân sự là 245.000.000 đồng cộng với 0,01% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 15.000.000.000 đồng”. Từ quy định nêu trên cho thấy, với số tiền phí phải nộp hàng trăm triệu đồng thì đương sự sẵn sàng thoả thuận ngầm với nhau để trốn đóng phí THADS, chia nhau số tiền lẽ ra phải nộp. Do đó, pháp luật cần bổ sung quy định thoả thuận về đình chỉ thi hành án đối với khoản tiền, tài sản có giá trị lớn (ví dụ từ 100 triệu đồng trở lên) phải có sự chứng kiến hoặc xác nhận của Chấp hành viên.
Ngoài ra, pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu quy định mang tính răn đe, trừng trị nghiêm khắc đối với hành vi trốn đóng phí thi hành án nên đương sự, Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự khác sẵn sàng thông đồng, cấu kết cùng tìm cách trốn đóng phí thi hành án để thu lợi cho mình. Điều 162 Luật THADS quy định 10 hành vi vi phạm hành chính trong THADS nhưng không có quy định xử lý đối với hành vi trốn tránh việc đóng phí THADS.
3. Một số giải pháp khắc phục tình trạng đương sự lách luật, trốn đóng phí thi hành án dân sự
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật
Hoàn thiện quy định của pháp luật về thoả thuận thi hành án, đình chỉ thi hành án là nền tảng quan trọng nhất, trong đó, việc bổ sung các quy định về kiểm soát thỏa thuận, yêu cầu đình chỉ thi hành án là yếu tố then chốt để tạo hành lang pháp lý chặt chẽ ngăn ngừa tình trạng thỏa thuận ngầm, lách luật để trốn đóng phí thi hành án.
Phương án hoàn thiện pháp luật cụ thể như sau:
Một là, cần sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS cần theo hướng:
(i) Quy định việc đình chỉ thi hành án khi người được thi hành án rút Đơn yêu cầu thi hành án phải có văn bản thoả thuận của hai bên đương sự và có văn bản yêu cầu đình chỉ của người được thi hành án để bảo đảm tính thống nhất giữa Luật THADS và Nghị định số 62/NĐ-CP. Theo đó, sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS: thay từ “hoặc” bằng từ “và”. Nội dung sửa đổi, bổ sung này sẽ khắc phục được tình trạng người được thi hành án đơn phương yêu cầu đình chỉ thi hành án để lách luật, trốn đóng phí thi hành án.
(ii) Sửa đổi, bổ sung cụm từ “đương sự có thoả thuận bằng văn bản”, do  còn chung chung, không rõ nội dung thoả thuận là gì, cần quy định rõ là “đương sự có thoả thuận bằng văn bản về việc đình chỉ thi hành án” để Chấp hành viên nắm rõ được việc đình chỉ thi hành án thực sự là ý chỉ của hai bên đương sự.
(iii) Quy định mọi trường hợp đương sự thỏa thuận đình chỉ thi hành án nhưng có giá trị tài sản lớn (ví dụ từ 100 triệu đồng trở lên) phải được Chấp hành viên chứng kiến hoặc xác nhận thì mới được công nhận. Điều này giúp hạn chế các giao dịch “ngầm” không qua quản lý, kiểm soát của cơ quan THADS.
Phương án sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS có thể được xây dựng như sau:
“Đương sự có thoả thuận bằng văn bản về việc đình chỉ thi hành án và người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Thoả thuận đình chỉ thi hành án đối với khoản tiền, tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên phải có sự chứng kiến hoặc xác nhận của Chấp hành viên”.
Hai là, Luật THADS cần luật hoá quy định về thoả thuận thi hành án tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và quy định rõ hơn tính chịu trách nhiệm của đương sự là phải cam kết bằng văn bản về việc đình chỉ thi hành án không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Phương án luật hoá quy định về thoả thuận thi hành án có thể được xây dựng như sau:
“Thoả thuận phải bằng văn bản thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thoả thuận, thời hạn thoả thuận, thời hạn thực hiện nội dung đã thoả thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Đương sự phải cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm về nội dung thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án”.
Ba là, bổ sung chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi trốn đóng phí thi hành án.
Trường hợp phát hiện đương sự có hành vi cố tình thỏa thuận ngầm để trốn phí, phải buộc nộp đủ phí thi hành án, đồng thời xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo mức độ vi phạm. Cụ thể, cần sửa đổi, bổ sung Điều 162 Luật THADS theo hướng quy định hành vi vi phạm hành chính: “Trốn đóng phí thi hành án dân sự”. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự theo hướng quy định tội danh đối với hành vi trốn đóng phí THADS.
3.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chấp hành viên
Chấp hành viên là người trực tiếp tổ chức thi hành án, giữ vai trò trung tâm trong việc phát hiện tính trạng lách luật, ngăn chặn thỏa thuận ngầm. Khi nâng cao trách nhiệm, vai trò của Chấp hành viên sẽ giúp cơ quan THADS kiểm soát, phát hiện kịp thời các hành vi gian lận trong quá trình thi hành án, hạn chế tình trạng trốn đóng phí thi hành án. Cụ thể là:
(i) Chấp hành viên cần nắm sát tình hình, xác minh biến động tiền, tài sản, làm việc trực tiếp với đương sự khi đương sự đề nghị đình chỉ thi hành án, nhất là đối với vụ việc có số tiền, tài sản lớn mà không có lý do rõ ràng, chính đáng để kịp thời phát hiện dấu hiệu lách luật, trốn đóng phí thi hành án;
(ii) Quy định rõ trách nhiệm pháp lý Chấp hành viên phải chịu trong trường hợp để xảy ra thất thu phí do thiếu trách nhiệm;
(iii) Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng phát hiện và xử lý hành vi thỏa thuận ngầm, trốn đóng phí thi hành án cho đội ngũ Chấp hành viên.
3.3. Tăng cường vai trò chỉ đạo, quản lý của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
Thủ trưởng cơ quan thi hành án là người chịu trách nhiệm chung, có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, xử lý kỷ luật. Các giải pháp tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng sẽ đảm bảo sự giám sát, tránh tình trạng Chấp hành viên “tự quyết” thiếu minh bạch. Cụ thể:
(i) Tăng cường giám sát, kiểm tra hồ sơ thi hành án, nhất là những vụ việc có dấu hiệu tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án mà không có lý do chính đáng, rõ ràng;
(ii) Kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp Chấp hành viên dung túng, tiếp tay hoặc làm ngơ cho đương sự thỏa thuận ngầm.
3.4. Tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật của đương sự
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật giúp đương sự thay đổi nhận thức, từ “né tránh” sang “tự giác thực hiện nghĩa vụ”, giúp họ hiểu rõ phí thi hành án là trách nhiệm công bằng với xã hội. Cụ thể:
(i) Nêu gương, xử lý điển hình, công khai trên Trang thông tin điện tử của cơ quan THADS ở Trung ương và địa phương các trường hợp cố tình trốn đóng phí thi hành án bị xử lý, để tạo hiệu ứng răn đe;
(ii) Khi tống đạt quyết định hoặc làm việc với đương sự, Chấp hành viên cần tuyên truyền, giải thích với đương sự việc nộp phí thi hành án là nghĩa vụ tài chính bắt buộc, gắn với trách nhiệm công dân và cảnh báo việc phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu đương sự có hành vi gian dối, trốn đóng phí thi hành án.
3.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Kiểm tra, giám sát là “hàng rào” ngăn chặn tiêu cực và sai phạm trong nội bộ. Khi được thực hiện nghiêm túc, giải pháp này sẽ kịp thời phát hiện, xử lý các sai phạm trong việc giải quyết, xử lý đơn xin rút yêu cầu thi hành án, đơn yêu cầu đình chỉ thi hành án, tạo tính răn đe mạnh mẽ đối với Chấp hành viên và đương sự có ý định vi phạm. Cụ thể:
(i) Kiểm tra, giám sát theo chuyên đề việc đình chỉ thi hành án theo yêu cầu, tập trung vào những vụ việc thi hành án theo yêu cầu có giá trị tiền, tài sản lớn nhưng báo cáo không thu được phí thi hành án;
(ii) Thiết lập, công khai đường dây nóng cho phép người dân, báo chí phản ánh hiện tượng công chức thi hành án, Chấp hành viên dung túng, tiếp tay, thông đồng cho việc thỏa thuận ngầm, trốn đóng phí thi hành án dân sự.
Có thể thấy, nếu được triển khai nghiêm túc và đồng bộ, các giải phaps nêu trên sẽ giúp siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, bảo đảm nguồn thu phí ổn định, công khai, minh bạch và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật.
4. Kiến nghị và đề xuất
4.1. Đối với Bộ Tư pháp, Cục Quản lý Thi hành án dân sự
Một là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật
Nghiên cứu đề xuất, trình cấp có thẩm quyền xem xét rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật THADS, các luật liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành để khắc phục những vướng mắc, hạn chế trong quy định của pháp luật như đã phân tích ở trên.
Hai là, tăng cường kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với những vụ việc thi hành án theo yêu cầu có số tiền, tài sản giá trị lớn nhưng không thu được, hoặc thu được rất ít phí thi hành án.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực đội ngũ công chức THADS, tăng cường giáo dục ý thức kỷ luật, phòng ngừa tiêu cực trong đội ngũ Chấp hành viên và có chính sách khen thưởng kịp thời đối với cá nhân, tập thể phát hiện và xử lý hiệu quả các trường hợp trốn phí thi hành án.
Bốn là, hợp tác quốc tế và nghiên cứu mô hình nước ngoài, tổ chức khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm các nước có hệ thống thu phí thi hành án minh bạch như Pháp, Đức, Nhật Bản…, để đề xuất áp dụng phù hợp tại Việt Nam. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng cơ sở dữ liệu và đào tạo nguồn nhân lực THADS.
4.2. Đối với cơ quan Thi hành án dân sự địa phương
Một là, nâng cao tinh thần trách nhiệm, siết chặt kỷ luật đối với Chấp hành viên và công chức THADS khác, kiên quyết xử lý nghiêm hành vi bao che, tiếp tay cho tình trạng lách luật, trốn đóng phí thi hành án.
Hai là, thực hiện nghiêm túc cơ chế “3 cấp kiểm soát” đối với hồ sơ đề nghị đình chỉ thi hành án đối với những vụ việc thi hành án theo đơn yêu cầu. Cụ thể: Chấp hành viên chịu trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ tính pháp lý của hồ sơ, báo cáo Trưởng phòng THDS Khu vực - Trưởng phòng THADS Khu vực kiểm tra, ký trách nhiệm trình Thủ trưởng cơ quan THADS - Thủ trưởng cơ quan THADS kiểm tra, ra quyết định.
Ba là, khen thưởng, động viên kip thời đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích phát hiện, xử lý hiệu quả các hành vi lách luật, trốn đóng phí thi hành án dân sự.
4.3. Đối với Chấp hành viên
Một là, tăng cường trách nhiệm cá nhân, Chấp hành viên phải thực hiện đầy đủ quy trình nghiệp vụ khi tổ chức thi hành án và phải chịu trách nhiệm cá nhân nếu để xảy ra thất thu phí do thiếu kiểm tra, giám sát.
Hai là, nâng cao kỹ năng chuyên môn, vận dụng linh hoạt các biện pháp nghiệp vụ để kịp thời phát hiện dấu hiệu lách luật, trốn đóng phí thi hành án khi đương sự tự thoả thuận thanh toán nghĩa vụ, có đơn xin rút yêu cầu thi hành án, đề nghị đình chỉ thi hành án mà không có lý do thuyết phục.
Ba là, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, phòng chống tiêu cực, tuyệt đối không nhận lợi ích vật chất từ đương sự để hướng dẫn, thông đồng, cấu kết với đương sự lách luật, trốn đóng phí thi hành án.
Bốn là, tuyên truyền, vận động đương sự thực hiện nghĩa vụ, coi việc nộp phí thi hành án là trách nhiệm pháp lý bắt buộc, không thể né tránh./.
Ts. Phạm Ngọc Thắng, Phó trưởng THADS tỉnh