Nghiên cứu về chức danh Chấp hành viên trưởng Phòng Thi hành án dân sự khu vực

28/10/2025


1. Tình hình, thực trạng
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và hoàn thiện thể chế đang ngày càng cấp bách. Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, xã theo các Kết luận và Nghị quyết của Trung ương đã ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống THADS: Nhiều địa phương không còn chính quyền, cấp ủy cấp huyện. Các cơ quan tố tụng (Tòa án, Viện kiểm sát, Công an) đã chuyển sang tổ chức theo khu vực hoặc chỉ còn cấp tỉnh. Trong khi đó, trước 01/7/2025 cơ quan THADS vẫn duy trì mô hình hai cấp 63 Cục THADS cấp tỉnh, 639 Chi cục cấp huyện. Đồng thời, yêu cầu chuyển đổi số và áp dụng mô hình quản trị hiện đại ngày càng cao, nhưng việc ứng dụng CNTT trong THADS còn hạn chế, chưa gắn với tái cấu trúc tổ chức để tăng hiệu quả quản lý.
Chi cục không có tổ chức bên trong nhưng phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ tài chính, hành chính, kế toán... với biên chế mỏng. Một số Chi cục có khối lượng công việc nhỏ vẫn duy trì đầy đủ cơ cấu, gây lãng phí. Năng lực quản lý tại nhiều đơn vị yếu, dễ dẫn đến sai phạm, nhất là trong tài chính và tài sản.
Thực hiện Kết luận số 162-KL/TW ngày 06/6/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thực hiện Nghị quyết 190/2025/QH15 của Quốc hội và chỉ đạo của Đảng, Bộ Tư pháp triển khai Đề án sắp xếp tổ chức THADS theo hướng: bỏ cấp Chi cục, tổ chức theo mô hình một cấp tổ chức, hai cấp nghiệp vụ.  63 Cục và 639 Chi cục trước đây được thay thế bằng: 34 cơ quan THADS cấp tỉnh trực thuộc Bộ Tư pháp, với 355 Phòng THADS khu vực là đơn vị chuyên môn thuộc Cục.
Mô hình mới triển khai từ 01/7/2025, phù hợp với tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án, Viện kiểm sát, Công an). Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1898/QĐ-BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý THADS – tạo nền tảng pháp lý vận hành mô hình mới. Tuy nhiên, Luật THADS hiện hành vẫn quy định mô hình hai cấp, cần được sửa đổi để thể chế hóa mô hình mới, bảo đảm tính ổn định và đồng bộ.
Theo Kết luận 126-KL/TW, Kết luận 127-KL/TW, Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 14/4/2025, sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, tiếp tục sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, do đó có một số thay đổi như: Không tổ chức cấp ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban chỉ đạo THADS cấp huyện cũng như cơ quan công an, cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện, do đó việc chỉ đạo, hỗ trợ hoạt động THADS đối với cơ quan THADS khu vực sẽ bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, hiện nay cơ quan điều tra của công an địa phương đã không tổ chức ở cấp huyện, chỉ tổ chức ở cấp tỉnh; tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân địa phương không tổ chức ở cấp huyện, chỉ tổ chức ở cấp tỉnh và cấp khu vực. Việc thay đổi mô hình tổ chức cơ quan điều tra, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân địa phương diễn ra sau khi Chính phủ đã thông qua mô hình tổ chức hệ thống THADS. Do vậy, để bảo đảm sự tương đồng, gắn kết với các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương trong tổ chức thực hiện hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, việc sắp xếp tổ chức hệ thống cơ quan THADS chỉ có cơ quan THADS cấp tỉnh như hiện nay là phù hợp.
Để bảo đảm phối hợp hiệu quả trong tổ chức thi hành án, các Phòng THADS khu vực được đặt tương đồng, thống nhất với 355 Tòa án, Viện kiểm sát khu vực (thống nhất về số lượng[1], thống nhất về phạm vi thẩm quyền hoạt động, thống nhất về địa điểm đặt trụ sở, tương đồng về tên gọi). Đồng thời, dự thảo Luật cũng quy định phạm vi thẩm quyền của Viện kiểm sát khu vực đối với các vụ việc do Phòng THADS khu vực trên cùng địa bàn tổ chức thi hành (Điều 12, Điều 113), quy định thẩm quyền tổ chức thi hành án của các Phòng THADS khu vực đối với các bản án, quyết định của Tòa án khu vực... Từ đó, bảo đảm quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS (trong đó có các Phòng THADS khu vực) và Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan liên quan tiếp tục được duy trì và phát huy hiệu quả, không có khoảng trống trong thực hiện nhiệm vụ.
Mục tiêu Đề án đặt ra khi vận hành mô hình cơ quan THADS một cấp ở địa phương nhằm phù hợp thực tiễn công tác THADS là phải gắn với cơ sở, cần sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn của địa phương và sự chuyên môn hóa cao trong nghiệp vụ nên các Phòng THADS khu vực là lực lượng chính tập trung vào công tác tổ chức thi hành án; cơ quan THADS tỉnh, thành phố tập trung vào công tác hành chính, tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Từ đó, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các Phòng THADS khu vực theo yêu cầu, mục tiêu trên, dự thảo Luật THADS quy định về việc Thủ trưởng cơ quan THADS ủy quyền cho Trưởng Phòng THADS khu vực (khoản 3 Điều 22), quy định về việc Phòng THADS khu vực tổ chức thi hành án đối với các vụ việc theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan THADS (khoản 2 Điều 31).
Tuy nhiên, Luật này là Luật về thủ tục, quan trọng nhất là những vấn đề về trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án, trong khi đó chủ thể chủ yếu của chuỗi trình tự, thủ tục đó là các Phòng THADS khu vực do đó, thấy cần gia cố thêm các quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng THADS khu vực trong tổ chức thi hành án để tương xứng với mục tiêu mà Đề án đặt ra. Trong đó, có vai trò rất quan trọng của Chấp hành viên Phòng THADS khu vực. Nhưng nếu để Chấp hành viên tự quyết định mọi việc trong quá trình tổ chức thi hành án sẽ dẫn đến việc dễ dàng “lạm quyền’. Hơn nữa, có những Chấp hành viên còn chưa vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng...nên nếu để Chấp hành viên toàn quyền trong việc tổ chức thi hành án sẽ dẫn đến có thể phát sinh những thiếu sót, vi phạm. Vì vậy, cần có sự hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên, trước hết là của Trưởng phòng Phòng THADS khu vực- những người lãnh đạo trực tiếp của Chấp hành viên.
2. Đề xuất, kiến nghị
Hiện nay, Chấp hành viên được xác định là một trong những chức danh tư pháp. Điều 9 Quy định số 183-QĐ/TW ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Bộ Chính trị quy định về bảo vệ cơ quan, tổ chức, người thi hành công vụ trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã giao trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện việc bảo vệ cơ quan, tổ chức, người thi hành công vụ trong hoạt động tố tụng, thi hành án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cấp ủy, tổ chức đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, thực hiện nghiêm quy chế làm việc, các quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án; bảo đảm tính độc lập, vô tư, khách quan của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên và người có thẩm quyền khác trong hoạt động tố tụng, thi hành án”.
Do đó, nếu quy định Trưởng phòng Phòng THADS khu vực chỉ đạo việc tổ chức thi hành án của Chấp hành viên sẽ có thể dẫn đến việc “chức danh hành chính” chỉ đạo “chức danh tư pháp”. Vì vậy, cần nghiên cứu để trao cho Trưởng phòng Phòng THADS khu vực có “chức danh tư pháp”. Qua nghiên cứu lịch sử các chức danh trong lĩnh vực THADS, có thể nghiên cứu, quy định Trưởng phòng Phòng THADS khu vực chức danh “Chấp hành viên trưởng”.
Về nhiệm vụ, quyền hạn, có thể quy định Trưởng phòng Phòng Thi hành án dân sự khu vực là Chấp hành viên trưởng của Phòng thi hành án dân sự khu vực, có thẩm quyền hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức thi hành án của Chấp hành viên Phòng Thi hành án dân sự khu vực và chịu trách nhiệm về việc hướng dẫn, chỉ đạo của mình.
Đây không phải là một chức danh mới mà đã được quy định trong Pháp lệnh THADS năm 1993. Cụ thể:
Điều 15 Pháp lệnh THADS năm 1993 quy định về Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng:
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có kiến thức pháp lý cần thiết và nắm vững nghiệp vụ thi hành án, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng làm nhiệm vụ thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngoài ra, Nghị định của Chính phủ số 30-CP ngày 2/6/1993 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên cũng đã quy định tại Điều 7, 8, 9, 10, 13, 14.
 

[1] 34 cơ quan THADS cấp tỉnh tương ứng với 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh và 34 Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; 355 Phòng THADS khu vực đặt tương ứng với 355 Tòa án, Viện kiểm sát khu vực.