Nâng cao hiệu quả thi hành án- Góc nhìn từ thực tiễn ban hành phán quyết của Tòa án

17/11/2020
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án, trong đó nội dung Bản án, Quyết định của tòa án có một vai trò đặc biệt quan trọng. Một phán quyết đúng, chính xác, rõ ràng là điều kiện vô cùng quan trọng để việc thi hành phán quyết được thuận lợi. Tuy nhiên trong thực tiễn, vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập. Bài viết dưới đây phân tích một số vấn đề còn tồn tại trong việc ban hành các bản án, quyết định của Tòa án và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng này, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án.


Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Theo đó,  mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.
Theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014( Luật THADS) Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:(1). Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật THADS đã có hiệu lực pháp luật:  Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án;Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. (2).Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.” Theo đó, phạm vi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo Luật THADS là rất lớn. Tuy nhiên chất lượng các bản án, quyết định của Tòa án ban hành vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án. Có thể kể đến một số bất cập cụ thể như sau:
Một là: Nội dung bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành
Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân sự, tính đến ngày 30/9/2018, số việc bản án, quyết định tuyên không rõ, có sai sót mà cơ quan thi hành án dân sự( THADS) đã có văn bản yêu cầu tòa án đính chính, giải thích là 508 việc (tương đương với số tiền hơn 495 tỷ đồng); số việc cơ quan THADS kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là 132 việc( tương đương với số tiền hơn 232 tỷ đồng)[1]. Có thể thấy, số lượng bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành hiện nay là rất lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tổ chức thi hành án.
Trong thực tiễn, nội dung bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành rất đa dạng, cụ thể như: Không tuyên rõ nghĩa vụ và đối tượng phải thi hành; không xác định rõ người phải thi hành án; không đề cập đến tài sản trên đất tồn tại từ trước khi có bản án; chỉ tuyên xử lý quyền sử dụng đất, không tuyên xử lý tài sản trên đất, tuyên thiếu, không đầy đủ các tài sản có trên đất phải chuyển giao; Tài sản thế chấp không có lối đi, nhiều bản án, quyết định có nội dung không thống nhất dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau...Đối với các bản án này, cơ quan THADS gặp rất nhiều khó khăn khi tổ chức thi hành án, mặt khác còn gây kéo dài vụ việc, lãng phí thời gian, chi phí của Nhà nước và nhân dân.
Hai là: Về cách tuyên giá trị trong các bản án, quyết định của Tòa án.
Trong thực tiễn, có rất nhiều trường hợp bản án tuyên giá trị phải thi hành án lẻ tới hàng đồng. Ví dụ: Bản án của Tòa án nhân dân huyện X tuyên:“ công ty TNHH in HV phải chịu án phí: 49.233.316,2 đồng( Bốn mươi chín triệu hai trăm ba mươi ba nghìn ba trăm mười sáu phẩy hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại có giá ngạch.
Trong thực tiễn, việc tuyên án lẻ đồng như trên là rất phổ biến. Đây là một bất cập trong thực tiễn tổ chức thi hành án. Bởi vì Quyết định thi hành án phải ghi rõ số tiền chính xác theo bản án quyết định của tòa án, nhưng khi tổ chức thi hành thì không thể có số tiền lẻ đồng để thu, nộp ngân sách cũng như chi trả cho đương sự như theo quyết định thi hành án và Bản án. Trong khi đó, trong các đơn vị tiền tệ của Việt Nam hiện nay, loại tiền mặt có giá trị thấp nhất được lưu hành là tiền có mệnh giá 100đ( Một trăm đồng)[2], dẫn đến việc ghi biên lai thu tiền và nộp tiền thi hành án trên thực tế là chưa thật sự hợp lý. Do đó cần thống nhất liên ngành Tòa án, Thi hành án về việc làm tròn số tiền phải thi hành để việc tuyên án chính xác, phù hợp và thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án.
Ba là: Về thời hạn giải thích bản án
Điều 179 Luật THADS quy định về trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án. Theo đó cơ quan ra bản án, quyết định có trách nhiệm bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế. Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan THADS. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
 Theo quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 1Điều 23 Luật THADS, thủ trưởng cơ quan THADS có quyền yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định đó để thi hành; Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên việc giải thích bản án, quyết định tuyên không rõ vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn còn nhiều trường hợp tòa án chậm trả lời hoặc không trả lời cơ quan THADS.  
Theo thống kê của Tổng cục THADS năm 2018, trong 508 việc cơ quan THADS đề nghị giải thích, các cơ quan có thẩm quyền đã trả lời 277 việc, trả lời chưa rõ: 53 việc, chưa trả lời: 178 việc; trong số 132 việc kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, số đã kháng nghị là 31 việc, số chưa kháng nghị là 101 việc. Theo đó, có thể thấy rất nhiều vụ việc thi hành án bị hoãn lại vì lý do này. Mặt khác, vẫn còn nhiều trường hợp mà nội dung giải thích của tòa án chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu, giải thích nhưng vẫn chưa rõ, khó thi hành...
Mặc dù Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Chỉ thị số 05/2017 ngày 16/10/2017 về việc giải quyết các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành. Trong đó, đưa ra nhiều giải pháp về việc rà soát, giải quyết dứt điểm các kiến nghị của cơ quan thi hành án cho rằng bản án, quyết định của tòa án tuyên không rõ, khó thi hành và phân công trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc rà soát, xem xét và xử lý, khắc phục đối với các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành… Tuy nhiên, phân tích số lượng các bản án chưa được giải thích, chưa trả lời cho các cơ quan THADS thì thấy rằng vẫn cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác này.
Mặt khác, việc giải thích bản án, quyết định tuyên không rõ vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn còn nhiều trường hợp mà nội dung giải thích của tòa án chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu, giải thích nhưng vẫn chưa rõ, khó thi hành...
Bốn là: Về cách thức sửa chữa, bổ sung bản án:
Điều 268 và Điều 486 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:“ Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan THADS nếu bản án đã được gửi cho cơ quan THADS”.
Điều 9 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định: Trường hợp phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ gây khó khăn cho việc thi hành án hoặc phát hiện lỗi chính tả, số liệu có nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì Thủ trưởng cơ quan THADS có văn bản yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi chính tả hoặc số liệu nhầm lẫn. Tòa án có trách nhiệm trả lời về những vấn đề được nêu trong văn bản yêu cầu của cơ quan THADS.Việc giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi chính tả hoặc sai sót về số liệu được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng và Điều 179 Luật THADS.  Điều 179 Luật THADS quy định: Tòa án có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan THADS.
Thực tiễn, khi sửa chữa, bổ sung bản án, Tòa án thường chỉ ban hành Công văn về việc sửa chữa, bổ sung bản án mà không ban hành Quyết định sửa chữa bổ sung bản án. Do đó, cần quy định thống nhất về hình thức ban hành văn bản sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định để áp dụng, thực hiện.
Một phán quyết đúng, chính xác, rõ ràng là điều kiện vô cùng quan trọng để việc thi hành phán quyết được thuận lợi[3]. Do đó một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng là Tòa án phải nâng cao chất lượng của phán quyết. Để làm được điều này đòi hỏi một giải pháp đồng bộ trong toàn bộ quá trình tố tụng và trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Bên cạnh các quy định về đính chính, sửa đổi, bổ sung bản án, hủy bản án( Điều 486, 487 Bộ luật Tố Tụng Dân sự năm 2015), cần xem xét trách nhiệm cá nhân của thẩm phán ra bản án, quyết định không rõ, không thống nhất, khó thi hành và có những chế tài pháp lý hữu hiệu để hạn chế tình trạng này.
Trong thực tế, tình trạng Tòa án chậm giải thích bản án, quyết định, chậm xem xét kiến nghị của cơ quan THADS vẫn còn diễn ra. Do đó cần có các quy định cụ thể và nghiêm khắc hơn nữa về trách nhiệm của tòa án, trách nhiệm của thẩm phán  đối với các trường hợp này. Đồng thời cần có cơ chế phát huy vai trò chủ động của cơ quan THADS và Chấp hành viên trong việc thực hiện quyền yêu cầu tòa án giải thích các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành.
Ths. Hoàng Thanh Hoa
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
 

[1] Số liệu Thống kê 12 tháng năm 2018; http://thads.moj.gov.vn/noidung/thongbao/Lists/BaoCaoThongKeTongCuc/View_Detail.aspx?ItemID=139
[2]https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/pht/dtvn/tdlh;jsessionid=LcqjZvB5p_VEgS2E_CuGpWnPWN5UER8AXjHw5iVt8ZGcVvFZJIQK!-316602514!-2024770115?_afrLoop=6694537250321224#%40%3F_afrLoop%3D6694537250321224%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Du4zawylcm_4
[3] Tưởng Duy Lượng, phát biểu tại hội thảo Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động THADS tại Việt Nam ngày 21;22/5/2017 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh