Sign In

Một số điểm mới của Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 15/11/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2025/NĐ-CP và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP

19/11/2024

Ngày 15/11/2024, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 152/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ. Nghị định số 152/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2025, trong đó có một số điểm mới cần lưu ý như sau:
1. Tại khoản 1 Điều 1 của Nghị định đã bổ sung quy định trường hợp đương sự phải thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các trở ngại khách quan khác theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật dân sự mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thuộc trường hợp trở ngại khách quan trong THADS vào điểm b khoản 3 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Ví dụ: trường hợp dịch bệnh, đương sự phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước về việc không được di chuyển ra khỏi vùng dịch hoặc phải thực hiện cách ly thì sẽ thuộc trường hợp được tính là trở ngại khách quan.
2. Tại khoản 2 Điều 1 Nghị định bổ sung quy định mở rộng phạm vi chứng kiến thỏa thuận của Chấp hành viên ngoài trụ sở cơ quan THADS vào khoản 4 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, cụ thể: Việc chứng kiến thỏa thuận được thực hiện tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự. Đối với các trường hợp thỏa thuận giao quyền sử dụng đất, giao nhà, tài sản gắn liền với đất; giao quyền nuôi dưỡng người chưa thành niên; giao quyền thăm nom, chăm sóc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao động thì Chấp hành viên chứng kiến ngoài trụ sở cơ quan nếu đương sự yêu cầu.
3. Tại khoản 3 Điều 1 Nghị định bổ sung khoản 7 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định Chấp hành viên có thể xác minh thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ 4.0 thì cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, dữ liệu quốc gia về đất đai và các cơ sở dữ liệu khác là một bước tiến mới trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và phục vụ người dân, góp phần chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số, xã hội số, kinh tế số, công dân số. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mang lại nhiều lợi ích như: Giảm thiểu chi phí và thời gian khi làm các thủ tục hành chính liên quan đến thông tin cá nhân; tăng cường tính minh bạch và công khai trong quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, quy định cho Chấp hành viên có thể xác minh thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia theo quy định của pháp luật. Kết quả xác minh là một trong những căn cứ để tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nhằm giảm tải chi phí, thời gian, hiệu quả hơn, có thể sử dụng một trong những căn cứ để tổ chức thi hành án.
4. Tại khoản 4 Điều 1 Nghị định bổ sung quy định thông báo thi hành án qua VNeID hoặc Trang thông tin điện tử của Cục Thi hành án dân sự và Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp khoản 1 Điều 12 Nghị định 62/2015/NĐ-CP như sau:
Thực tiễn công tác THADS hiện nay, phát sinh nhiều vụ việc mà đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có số lượng nhiều, địa chỉ ở rải rác khắp cả nước nên việc thực hiện thông báo thi hành án theo quy định tại Điều 39, 40, 41, 42 Luật THADS gặp khó khăn. Trình tự, thủ tục thi hành án phát sinh nhiều văn bản, nếu thực hiện thông báo như quy định hiện hành phát sinh chi phí, thời gian, nhân lực và không bảo đảm đúng quy định pháp luật. Mặt khác, hiện nay ứng dụng VNeID có nhiều tiện ích trong đó có tiện ích nhận thông báo để phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội nên nếu có quy định để thực hiện thông báo thi hành án trên VNeID thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi tiếp cận thông tin thi hành án.
Do đó, để giảm tải thủ tục, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, Nghị định đã bổ sung quy định việc thông báo về thi hành án theo quy định tại Điều 40, Điều 41, Điều 42 của Luật Thi hành án dân sự được thực hiện lần đầu. Trường hợp người được thông báo đồng ý thì từ lần thông báo thứ hai trở đi, cơ quan thi hành án dân sự có thể thực hiện thông báo qua VNeID hoặc Trang thông tin điện tử của Cục Thi hành án dân sự và Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp. Nếu người được thông báo không đồng ý về hình thức thông báo từ lần thứ hai trở đi thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện thông báo theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
5. Tại khoản 5 Điều 1 Nghị định bổ sung quy định xử lý chứng khoán, cổ phần, phần vốn góp và giấy tờ có giá trong THADS như sau:
“5. Việc xử lý chứng khoán đang niêm yết hoặc đang đăng ký giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán được thực hiện như sau:
a) Chấp hành viên ra quyết định phong tỏa chứng khoán gửi Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (sau đây được viết tắt là VSDC) và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định tại Điều 67 của Luật Thi hành án dân sự. Trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của Chấp hành viên, VSDC thực hiện phong tỏa chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán và gửi thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự và thành viên lưu ký.
Quyết định phong tỏa chứng khoán gồm những nội dung sau: nội dung yêu cầu phong tỏa chứng khoán; họ và tên, số và ngày cấp chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân đối với cá nhân; tên, số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ pháp lý tương đương đối với pháp nhân; mã chứng khoán và số lượng chứng khoán đề nghị phong tỏa.
b) Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý chứng khoán theo quy định tại khoản 3 Điều 71 của Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được thông báo hợp lệ quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý chứng khoán, đương sự được thỏa thuận về việc bán chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự về việc thỏa thuận đó.
Hết thời hạn trên, cơ quan thi hành án dân sự ban hành văn bản yêu cầu VSDC chuyển chứng khoán đã kê biên sang cơ quan thi hành án dân sựCơ quan thi hành án dân sự có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đối với số chứng khoán đã nhận. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, VSDC phải thực hiện việc chuyển chứng khoán. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày hoàn tất việc chuyển chứng khoán, Chấp hành viên thực hiện việc bán theo thỏa thuận của đương sự. Trường hợp đương sự không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì Chấp hành viên thực hiện bán chứng khoán theo phương thức khớp lệnh với mức giá tham chiếu theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án thì ngay sau khi ban hành quyết định cưỡng chế kê biên, cơ quan thi hành án dân sự ban hành văn bản yêu cầu VSDC chuyển chứng khoán đã kê biên sang cơ quan thi hành án dân sự và thực hiện việc bán chứng khoán theo phương thức khớp lệnh với mức giá tham chiếu theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
6. Việc xử lý chứng khoán chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch và đã đăng ký tập trung tại VSDC hoặc đang niêm yết, đăng ký giao dịch nhưng không bán được theo quy định tại khoản 5 Điều này, Chấp hành viên thực hiện phong tỏa theo quy định tại Điều 67 của Luật Thi hành án dân sự; ra quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 71 của Luật Thi hành án dân sựTrình tự, thủ tục định giá, bán chứng khoán được thực hiện theo quy định tại Điều 98, Điều 99, Điều 101 và quy định khác của Luật Thi hành án dân sự, pháp luật về bán đấu giá tài sản và pháp luật khác có liên quan. Sau khi bán chứng khoán, cơ quan thi hành án dân sự gửi văn bản yêu cầu VSDC thực hiện chuyển quyền sở hữu chứng khoán cho người mua theo quy định của pháp luật.
7. Việc xử lý chứng khoán, cổ phần, phần vốn góp không thuộc quy định khoản 5, khoản 6 Điều này và giấy tờ có giá thì Chấp hành viên kê biên, xử lý theo quy định tại Điều 71, Điều 83, Điều 92, Điều 98, Điều 99, Điều 101 và quy định khác của Luật Thi hành án dân sựpháp luật về bán đấu giá tài sản, pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan. Khi ra quyết định kê biên, Chấp hành viên đồng thời ban hành văn bản thông báo về việc kê biên tài sản đó cho doanh nghiệp nơi người phải thi hành án góp vốn và các cơ quan, tổ chức có liên quan để ngăn chặn việc chuyển quyền sở hữu, thay đổi hiện trạng tài sản cho đến khi có quyết định của cơ quan thi hành án dân sự.”
Như vậy, Nghị định đã bổ sung quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục xử lý tài sản đặc thù là chứng khoán, cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất cập và thực hiện nhiệm vụ được Thủ trướng Chính phủ giao tại Quyết định số 17/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại. Theo đó, cơ quan THADS cần lưu ý đối với các loại tài sản (chứng khoán đang niêm yết hoặc đang đăng ký giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán; chứng khoán chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch và đã đăng ký tập trung tại VSDC hoặc đang niêm yết, đăng ký giao dịch nhưng không bán được theo quy định tại khoản 5 Điều này; chứng khoán, cổ phần, phần vốn góp không thuộc quy định khoản 5, khoản 6 Điều này và giấy tờ có giá) để áp dụng thống nhất theo quy định nêu trên.
6. Bổ sung biện pháp nhằm hạn chế người phải thi hành án tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án dân sự khi cơ quan thi hành án dân sự kê biên, xử lý tài sản tương ứng với nghĩa vụ và chi phí thi hành án.
Tại khoản 5 Điều 1 Nghị định bổ sung khoản 8 Điều 13 như sau:
“8. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và chi phí thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này mà người phải thi hành án còn tài sản khác thì Chấp hành viên có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền liên quan thông báo ngay cho cơ quan thi hành án dân sự khi phát sinh các giao dịch đối với tài sản đó để phối hợp xử lý theo quy định pháp luật.”
Thực tiễn công tác THADS cho thấy, trong nhiều trường hợp cơ quan THADS đã kê biên tài sản tương ứng nghĩa vụ thi hành án nhưng quá trình xử lý, giá trị tài sản không còn đáp ứng điều kiện tương ứng nghĩa vụ thi hành án và chi phí xử lý tài sản thi hành án (lý do: biến động giá, do bán đấu giá nhiều lần không có người mua nên phải giảm giá; tài sản có tranh chấp được Toà án thụ lý giải quyết kéo dài...), trong khi người phải thi hành án vẫn còn tài sản khác thì họ đã thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với các tài sản khác, dẫn đến việc nếu tài sản trước đó Chấp hành viên kê biên tương ứng nhưng không đủ, không còn căn cứ để kê biên tiếp thì việc xử lý tài sản khác gặp khó khăn.
Ví dụ: Người phải thi hành án có ba tài sản, Chấp hành viên kê biên tài sản thứ nhất (tương ứng). Tuy nhiên, quá trình xử lý tài sản bán nhiều lần không thành, giá trị tài sản giảm không đủ thi hành nghĩa vụ và chi phí cưỡng chế. Chấp hành viên không có căn cứ để tiếp tục xử lý 2 tài sản còn lại hoặc khi có căn cứ xử lý thì các tài sản này đương sự đã thực hiện giao dịch khác dẫn đến khó khăn trong việc xử lý.
Do đó, Nghị định đã bổ sung quy định đối với các trường hợp này Chấp hành viên có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền liên quan thông báo ngay cho cơ quan thi hành án dân sự khi phát sinh các giao dịch đối với tài sản đó để phối hợp xử lý theo quy định pháp luật. Tùy vào từng vụ việc, cơ quan THADS có thể thực hiện ngăn chặn để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
7. Bổ sung quy định hướng dẫn thủ tục chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 Luật THADS tại Điều 15 như sau:
3. Việc ra quyết định chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự phải trên cơ sở quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phù hợp với pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật khác có liên quan.
Khi thực hiện chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án cũ, ra quyết định thi hành án mới tương ứng với phần quyền, nghĩa vụ được chuyển giao và phần quyền chưa được chuyển giao (nếu có).”
Như vậy, Nghị định đã bổ sung quy định khi thực hiện chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án cũ, ra quyết định thi hành án mới tương ứng với phần quyền, nghĩa vụ được chuyển giao và phần quyền chưa được chuyển giao (nếu có) để thống nhất áp dụng đối với các trường hợp chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án.
8. Bổ sung một số quy định hướng dẫn liên quan đến lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản và xử lý kết quả bán đấu giá.
- Bổ sung quy định trường hợp đương sự không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thì Chấp hành viên lựa chọn theo pháp luật về đấu giá tài sản tại khoản 1 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để phù hợp với pháp luật về đấu giá. Như vậy, kể từ thời điểm Nghị định này có hiệu lực thì cơ quan THADS thực hiện lựa chọn tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật về đấu giá, không bị hạn chế địa giới hành chính như quy định trước đây.
- Bổ sung quy định quyền hủy hợp đồng mua bán của cơ quan THADS trong trường hợp người mua trúng đấu giá không nộp hoặc nộp không đủ tiền mua tài sản đấu giá tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau: “Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm. Trường hợp người mua được tài sản đấu giá không nộp hoặc nộp không đủ tiền mua tài sản trong thời hạn quy định thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ quy định của pháp luật hủy bỏ giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc yêu cầu Tòa án hủy bỏ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trường hợp người mua được tài sản đấu giá không nộp hoặc nộp không đủ tiền mua tài sản trong thời hạn quy định thì hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị hủy bỏ hoặc yêu cầu Tòa án hủy bỏ nhằm ràng buộc trách nhiệm của người mua tài sản đấu giá và tạo cơ sở để cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.
- Sửa đổi thời hạn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau: Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày người mua được tài sản đấu giá nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự tổ chức việc giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Như vậy, Nghị định hiện hành đã sửa đổi bổ sung quy định trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày người mua được tài sản đấu giá nộp đủ tiền thay vì quy định trong thời hạn không quá 30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền như trước đây.
- Bổ sung quy định hướng dẫn xử lý đối với khoản tiền lãi phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá Nghị định quy định 2 trường hợp:
+ Phần lãi từ tiền gửi phát sinh trong thời hạn giao tài sản theo quy định (60 ngày) được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án.
+ Phần lãi từ tiền gửi phát sinh ngoài thời hạn giao tài sản quy định tại khoản 3 Điều này thuộc về người mua tài sản. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thì người phải thi hành án, người có tài sản hoặc người đang quản lý tài sản thi hành án phải chịu mọi chi phí cưỡng chế theo quy định tại Điều 73 của Luật Thi hành án dân sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
9. Sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục (cơ quan có thẩm quyền, thời hạn) trong trường hợp không thu hồi được Giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 106 Luật THADS để phù hợp với Luật Đất đai năm 2024, Nghị định số 101/2024/NĐ-CP ngày 29/7/2024 của Chính phủ và pháp luật liên quan tại khoản 2 Điều 28 như sau:
“2. Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cấp Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật mà không thu hồi được Giấy chứng nhận thì thực hiện như sau:
a) Cơ quan thi hành án dân sự gửi văn bản kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận đến Ủy ban nhân dân có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 136 của Luật Đất đai đối với Giấy chứng nhận được cấp lần đầu hoặc tổ chức đăng ký đất đai hoặc chi nhánh của tổ chức đăng ký đất đai quy định tại khoản 2 Điều 136 của Luật Đất đai đối với Giấy chứng nhận đã cấp khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất;
b) Trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan có thẩm quyền nêu tại điểm a khoản 2 Điều này quyết định thu hồi, hủy Giấy chứng nhận đã cấp. Việc cấp, cấp lại Giấy chứng nhận thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.”
10. Bổ sung quy định dẫn chiếu các căn cứ để xác định trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khiếu nại để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại tại khoản 9 Điều 1 Nghị định bổ sung khoản 6 Điều 38 như sau: “Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại căn cứ quy định tại Điều 4 Nghị định này, pháp luật khác có liên quan để xác định thời gian trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng và thời gian này không tính vào thời hạn khiếu nại theo quy định tại khoản 2 Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự.”
Tại Điều 140 Luật THADS quy định “Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.” Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn thống nhất cách thức áp dụng các trường hợp trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng để không tính vào thời hiệu khiếu nại. Như vậy, Nghị định quy định hướng dẫn thống nhất để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thụ lý khiếu nại áp dụng để tính thời hiệu khiếu nại cho người khiếu nại trên tinh thần bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
11. Bổ sung quy định hướng dẫn khoản chi phí cưỡng chế, bảo quản tài sản khi đã tiến hành tổ chức cưỡng chế xong nhưng việc thi hành án phải đình chỉ trong một số trường hợp (đương sự chết, giải thể; bản án bị hủy) là chi phí cần thiết khác do Ngân sách nhà nước trả theo Điều 73 Luật Thi hành án dân sự để phù hợp với thực tế trong quá trình tổ chức thi hành án. Theo đó, Nghị định đã bổ sung thêm cụm từ “đã tổ chức cưỡng chế xong”vào điểm e khoản 1 Điều 43 Nghị định.
12. Bổ sung quy định hướng dẫn thủ tục thanh toán tiền từ việc xử lý tài sản bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự mà có nhiều người được thi hành án nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu thi hành án nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và thực hiện đúng nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như sau:
“7. Trường hợp thanh toán tiền khi xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự có nhiều người được thi hành án nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu thi hành áncơ quan thi hành án dân sự thanh toán cho những người đã yêu cầu theo tỷ lệ mà họ được nhận, số tiền còn lại gửi vào ngân hàng theo hình thức tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời thông báo cho những người chưa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Hết thời hiệu yêu cầu thi hành án mà cơ quan thi hành án dân sự không nhận được yêu cầu thì số tiền đã gửi và tiền lãi được thanh toán tiếp cho những người đã có yêu cầu thi hành án trong bản án, quyết định đó; số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác (nếu có) tính đến thời điểm thanh toán hoặc trả cho người có tài sản bị kê biên, xử lý.
Thực tiễn công tác thi hành án dân sự, có nhiều trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể, cơ quan thi hành án dân sự sau khi thu được tiền chia tỷ lệ nhưng có nhiều người được thi hành án khác trong bản án, quyết định đó chưa làm đơn yêu cầu. Tiền theo tỷ lệ họ được nhận cơ quan thi hành án dân sự chưa có cơ sở để xử lý và bị tồn tại cơ quan thi hành án.
Do đó, Nghị định quy định bổ sung quy định trường hợp sau khi chia tỷ lệ mà người được thi hành án chưa làm đơn yêu cầu thi hành án thì cơ quan THADS gửi tiết kiệm số tiền đó và thông báo cho những người chưa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án và thực hiện thanh toán theo quy định nêu trên.
13Bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP gây khó khăn cho Chấp hành viên trong quá trình thực hiện bởi vì Chấp hành viên không có cơ sở để xác định được các tiêu chí thực hiện việc phân chia tài sản chung vợ chồng, hộ gia đình. Khi Chấp hành viên thực hiện khởi kiện yêu cầu Toà án thực hiện phân chia theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự thì Toà án nhân dân các cấp không thụ lý yêu cầu vì cho rằng Chấp hành viên chưa thực hiện hết quyền theo quy định này nên không có cơ sở để thụ lý yêu cầu của Chấp hành viên. Thực tế hiện nay, tài sản thi hành án thuộc trường hợp tài sản chung vợ chồng, hộ gia đình khá phổ biến, đương sự không hợp tác dẫn đến việc thi hành án có điều kiện thi hành nhưng cơ quan thi hành án dân sự không xử lý được tài sản, đây cũng là một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến án tồn đọng, khiếu nại tố cáo kéo dài. Đối với các vụ án kinh tế tham nhũng việc Chấp hành viên phân chia có thể dẫn đến thất thoát tài sản của Nhà nước nếu không có căn cứ để tính công sức đóng góp vào tài sản.
Do đó, theo quy định nêu trên, kể từ thời điểm Nghị định này có hiệu lực cơ quan THADS áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự để thực hiện.
14. Ngoài ra, Nghị định còn sửa đổi thẩm quyền quy định mã số, ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ, xếp lương; thẩm quyền bổ nhiệm vào ngạch, chuyển ngạch, miễn nhiệm; nội dung hình thức thi, xét nâng ngạch các ngạch Chấp hành viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án để phù hợp với khoản 6 Điều 73 Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức (Điều 56, Điều 66, Điều 69, Điều 71, Điều 78); (3) Bổ sung quy định Bộ Tư pháp quyết định việc cấp phát, sử dụng trang phục, phù hiệu, cấp hiệu thi hành án dân sự (Điều 83).
Đậu Thị Hiền, Vụ Nghiệp vụ 1


Theo Cổng thông tin điện tử Tổng cục THADS

Các tin khác
Các tin đã đưa ngày: