Thi hành bản án, quyết định về lao động và một số vấn đề cần hoàn thiện

13/01/2023
Trong hoạt động THADS, thi hành các bản án, quyết định về lao động (sau đây gọi tắt là thi hành án lao động) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động, giúp nâng cao an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chấm dứt hợp đồng lao động… tuy nhiên thực tiễn tổ chức thi hành các bản án, quyết định về lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung đi sâu phân tích một số vấn đề chung về thi hành án lao động, tổng hợp một số khó khăn, bất cập phát sinh từ các quy định pháp luật cũng như từ thực tiễn, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thể chế liên quan đến trình tự, thủ tục thi hành án lao động.
 


1.Một số vấn đề chung về thi hành bản án, quyết định về lao động
Chương XIV Bộ luật Lao động năm 2019 và Điều 32, Điều 33 BLTTDS năm 2015 có quy định cụ thể những tranh chấp lao động và những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Những tranh chấp về lao động và yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, có thể là: Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động; giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại; …[1] Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cũng rất phong phú, cụ thể như: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu; Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công; Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng tài nước ngoài; Các yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật….Theo đó các bản án, quyết định của Tòa án về lao động cũng có nhiều nội dung khác nhau.
 
Luật THADS không có quy định cụ thể về khái niệm, đặc điểm của việc thi hành bản án, quyết định về lao động. Có thể thấy việc thi hành các bản án, quyết định về lao động có một số đặc điểm như sau:
 
Thứ nhất, về chủ thể:
Chủ thể tham gia quan hệ lao động là người lao động và người sử dụng lao động, do đó chủ thể tham gia vào quá trình tổ chức thi hành án cũng chính là hai chủ thể này. Theo giải thích từ ngữ tại khoản 1 Điều 3 Luật THADS thì “Đương sự” bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án. Cũng theo giải thích của Điều luật thì “Người được thi hành án” là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. “Người phải thi hành án” là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Ngoài ra còn có “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự[2]. Do đó, tùy theo từng loại nghĩa vụ trong bản án, quyết định về lao động mà đương sự trong việc thi hành bản án, quyết định về lao động lại khác nhau.
 
Thứ hai, về khoản, nghĩa vụ trong bản án, quyết định lao động phải thi hành theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự:
Theo Điều 2 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 thì thi hành các bản án, quyết định về lao động là một trong những loại việc do cơ quan THADS tổ chức thi hành. Các nghĩa vụ trong bản án, quyết định về lao động được chia thành hai loại. Nhóm thứ nhất, bao gồm các khoản (nghĩa vụ) thuộc diện chủ động thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật THADS, cụ thể: “2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau: a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự; c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước”. Trong các bản án, quyết định về lao động, thường có một số khoản chủ động thi hành án như: án phí, lệ phí trả lại tiền, tài sản cho đương sự...
 
Nhóm thứ hai, là các nghĩa vụ khác được ghi nhận trong phần quyết định của bản án, quyết định về lao động. Đây là các khoản được thi hành theo quy định của Luật THADS khi có yêu cầu thi hành án của đương sự. Các nghĩa vụ thường gặp như: Nghĩa vụ buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc; nghĩa vụ bồi thường tiền lương, tiền công lao động trong thời gian người lao động không được làm việc; nghĩa vụ về trợ cấp mất việc làm; nghĩa vụ về trợ cấp thôi việc; nghĩa vụ phải bồi thường chi phí đào tạo; các loại nghĩa vụ khác bao gồm: nghĩa vụ về trả tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện hợp đồng lao động hoặc tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện hợp đồng trong trường hợp người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; nghĩa vụ phải trả lại người lao động các văn bằng, chứng chỉ, sổ lao động, sổ bảo hiểm…Trong thực tiễn thi hành các bản án, quyết định về lao động, cơ quan THADS thường gặp các loại nghĩa vụ như: Thi hành nghĩa vụ buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc; Thi hành các nghĩa vụ bồi thường trong bản án, quyết định lao động, trong đó có các loại nghĩa vụ như: nghĩa vụ bồi thường tiền lương, tiền công lao động trong thời gian người lao động không được làm việc; nghĩa vụ về trợ cấp mất việc làm; nghĩa vụ về trợ cấp thôi việc; nghĩa vụ phải bồi thường chi phí đào tạo…
 
Việc thi hành các bản án, quyết định về lao động được quy định tại khoản 2 Điều 482 Bộ luật TTDS năm 2015, khoản 2 Điều 2, khoản 1 Điều 56,  Điều 121 Luật THADS năm 2008 Luật THADS năm 2008; Điều 34, 41, 46, 47 và Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ năm 2019); Điều 8 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ năm 2019 (145/2020/NĐ-CP), Công văn  số 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017 của Tổng cục THADS về việc hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ thi hành án dân sự (Công văn số 1103/TCTHADS-NV1).
 
2.Một số vướng mắc từ thực tiễn tổ chức thi hành bản án, quyết định về lao động
Một là: Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
Theo quy định tại Điều 121 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp người sử dụng lao động không nhận người lao động trở lại làm việc theo bản án, quyết định thì chấp hành viên ra quyết định phạt tiền đối với người sử dụng lao động là cá nhân hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng lao động, đồng thời ấn định thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người sử dụng lao động thực hiện việc nhận người lao động trở lại làm việc.
 
Điều 49 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012( sửa đổi, bổ sung năm 2020); Điều 64, Điều 82 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định về mức xử phạt tương ứng với hành vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án quyết định, cụ thể là hành vi không nhận người lao động trở lại làm việc. Theo đó, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định. Tuy nhiên, với mức phạt như trên thì thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này là Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Do đó, chấp hành viên của Chi cục hay của Cục Thi hành án dân sự đều phải đề xuất Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với người sử dụng lao động là cá nhân hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng lao động chứ không thuộc thẩm quyền xử phạt của chấp hành viên đang trực tiếp tổ chức thi hành vụ việc. Việc thực hiện thủ tục xử phạt này trên thực tế gây rất nhiều phiền phức và mất khá nhiều thời gian giải quyết hồ sơ thi hành án của các chấp hành viên[3]. Để tiết kiệm thời gian và giảm bớt thủ tục hành chính, pháp luật cần trao quyền xử phạt hành chính đối với những hành vi không thực hiện công việc nhất định cho các chấp hành viên đang trực tiếp tổ chức thi hành vụ việc đó.
 
Hai là: Về việc xác định khoản tiền thanh toán cho người lao động:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp người sử dụng lao động không thể bố trí người lao động trở lại làm công việc theo nội dung bản án, quyết định thì chấp hành viên yêu cầu người sử dụng lao động phải bố trí công việc khác với mức lương tương đương theo quy định của pháp luật lao động. Trường hợp người lao động không chấp nhận công việc được bố trí và yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán các chế độ theo quy định của pháp luật lao động, thì người sử dụng lao động phải thực hiện việc thanh toán để chấm dứt nghĩa vụ thi hành án.
 
Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định: Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
 
Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 41 và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
 
Như vậy, trong trường hợp người sử dụng lao động không thể bố trí người lao động trở lại làm công việc theo nội dung bản án, quyết định hoặc người lao động không chấp nhận công việc được bố trí và yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán các chế độ theo quy định của pháp luật lao động, thì chấp hành viên yêu cầu người sử dụng lao động phải thực hiện việc thanh toán để chấm dứt nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, việc xác định các khoản tiền này là rất khó khăn.
 
Ví dụ: Để tính được trợ cấp thôi việc cho người lao động thì chấp hành viên cần xác định được thời gian làm việc của người lao động để tính trợ cấp thôi việc và tiền lương để tính trợ cấp thôi việc. Việc tính các khoảng thời gian này lại liên quan rất nhiều đến các quy định của pháp luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành (Điều 41, Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2019; Điều 14 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động năm 2019…), đòi hỏi chấp hành viên phải có sự am hiểu pháp luật về lao động và chuyên môn sâu về lĩnh vực này, trong khi đó chấp hành viên cơ quan THADS khó có thể đáp ứng được yêu cầu này.
 
Ba là: Việc thi hành án theo khoản 3 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự
Tại khoản 3 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Người sử dụng lao động phải thanh toán cho người lao động khoản tiền lương trong thời gian chưa bố trí được công việc theo bản án, quyết định, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi người lao động được nhận trở lại làm việc hoặc được giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật THADS”. Theo đó, khi người sử dụng lao động không nhận hoặc chậm nhận người lao động trở lại làm việc khi người lao động có đơn yêu cầu thi hành án thì sẽ phải thanh toán cho người lao động khoản tiền lương trong thời gian người sử dụng lao động không nhận hoặc chậm nhận người lao động trở lại làm việc. Với quy định này, hiện có 02 quan điểm khác nhau về việc tổ chức thi hành:
 
(i) Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không tuyên rõ nghĩa vụ này của người sử dụng lao động thì cơ quan thi hành án không có thẩm quyền thi hành án đối với khoản tiền lương của người lao động từ khi họ có đơn yêu cầu nhận người lao động trở lại làm việc theo bản án của Tòa án đến khi người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc với lý do bản án của Tòa án không tuyên nghĩa vụ này đối với người sử dụng lao động nên cơ quan THADS không có căn cứ để ra quyết định thi hành án (Điều 2 Luật Thi hành án dân sự). Mặt khác, Điều 20 Luật Thi hành án dân sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên là thi hành theo đúng nội dung bản án, quyết định, do đó, trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không tuyên nghĩa vụ này thì cơ quan THADS, chấp hành viên không có thẩm quyền tổ chức thi hành án;
 
(ii) Quan điểm thứ hai cho rằng, cơ quan THADS có thẩm quyền tổ chức thi hành án khoản này với lý do khoản 3 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự đã quy định. Vì vậy, cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi hành án nếu có đơn yêu cầu của người lao động và có như vậy mới đảm bảo tính răn đe người sử dụng lao động khi không thực hiện các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án.
 
Theo tác giả, việc quy định tại khoản 3 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự là cần thiết và phù hợp vì quy định này bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động khi bản án đã tuyên người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc mà người sử dụng lao động cố tình không chấp hành bản án, không nhận hoặc chậm nhận người lao động trở lại làm việc thì phải chịu trách nhiệm với người lao động đó là phải trả lương cho người lao động. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ khi xét xử Tòa án cần đưa khoản này vào phần quyết định của bản án[4] nên hầu hết các bản án lao động khi tuyên buộc người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc đã không tuyên người sử dụng lao động phải thanh toán khoản tiền lương cho người lao động, kể từ ngày người lao động có đơn yêu cầu cho đến khi người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc. Chỉ khi nào Tòa án đưa nội dung này vào phần quyết định của bản án, thì cơ quan THADS mới có đầy đủ cơ sở pháp lý để tổ chức thi hành án, tránh được sự khiếu nại từ phía các đương sự hoặc sự kháng nghị từ phía các cơ quan có thẩm quyền kháng nghị trong hoạt động THADS[5].
 
3. Kiến nghị
Từ những vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành bản án, quyết định về lao động, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:
 
Thứ nhất, cần sớm xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động THADS theo hướng tăng mức xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án của chấp hành viên đến 3.000.000 đồng trở lên (hiện nay, mức phạt tiền tối đa mà chấp hành viên có thể áp dụng theo Điều 64 và Điều 85 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP là 500.000 đồng). Để việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các vụ việc thi hành án nhận người lao động trở lại làm việc được thuận lợi, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án.
 
Thứ hai, khi xét xử các vụ án liên quan đến việc nhận người lao động trở lại làm việc, cần đưa nội dung "Người sử dụng lao động phải thanh toán cho người lao động khoản tiền lương trong thời gian chưa bố trí được công việc theo bản án, quyết định, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi người lao động được nhận trở lại làm việc” vào phần quyết định của bản án, quyết định. Theo đó, Tòa án cần tuyên rõ người sử dụng lao động phải thanh toán tiền lương (theo mức lương cơ bản hoặc mức lương mà người lao động được hưởng trước khi buộc thôi việc trái pháp luật hoặc mức lương theo thỏa thuận) cho người lao động, kể từ ngày người lao động có đơn yêu cầu thi hành án đến khi người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc. Việc làm này sẽ tạo cơ sở pháp lý chắc chắn để các cơ quan THADS tổ chức thi hành, giảm tải công việc cho các chấp hành viên, đồng thời đảm bảo việc thực hiện tính toán các khoản tiền này một cách chính xác.
 
Thứ ba, thi hành các bản án, quyết định về lao động là một loại việc thi hành án có nhiều tính chất đặc thù, không giống các việc thi hành án khác, do đó các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật theo các chuyên đề chuyên sâu về pháp luật THADS nói chung và thi hành các bản án quyết định về lao động nói riêng cho các chấp hành viên, cơ quan THADS, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn cho chấp hành viên trong tổ chức thi hành án đối với các vụ việc này.
 
Việc thi hành các bản án, quyết định về lao động ngày càng phát sinh nhiều, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay. Do đó, yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật THADS và các quy định pháp luật liên quan để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án đối với các vụ án lao động nói riêng là rất quan trọng và cần thiết.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa, Khoa đào tạo các chức danh Thi hành án Dân sự, học viện Tư pháp
 

[1] Điều 179 BLLĐ năm 2019
[2] Khoản 2, 3, 4 Điều 3 Luật THADS
[3] Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự – Vì sao kém hiệu quả?, http://baophapluat.vn/tu-van-365/xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-thi-hanh-an-dan-su-vi-sao-kem-hieu-qua-360854.html, đăng ngày 16/10/2017.
[4] Xem thêm Điều 32, Điều 33, Điều 266, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[5] Ths. Nguyễn Thị Phíp, Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa; Thi hành bản án, quyết định về lao động- Vướng mắc từ thực tiễn và một số kiến nghị; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số định kỳ tháng 10/2019; trang