Những vấn đề thực tiễn về xác minh, cung cấp thông tin và hướng hoàn thiện

30/11/2011
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (LTHADS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009, thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự  năm 2004 đến nay đã hơn hai năm. Trong thời gian qua, LTHADS và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phát huy được vai trò, vị trí của mình trong hệ thống pháp luật nói chung và trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự nói riêng.


Một mặt, nó đã kiện toàn được hệ thống cơ quan thi hành án dân sự từ trung ương xuống địa phương, mặt khác nó đã khắc phục được nhiều điểm hạn chế bất cập của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý cho Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, từng bước nâng cao hiệu quả công tác thi hành án. Điều đó cho thấy những điểm mới trong LTHADS so với Pháp lệnh đã có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng còn những quy định mới mà cho đến bây giờ vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về tính hiệu quả của nó. Ở đây chúng tôi muốn bàn thêm về một trong những quy định mới nói trên, đó là vấn đề quy định trách nhiệm của người được thi hành án đối với việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Đây là một quy định mới. Vì vậy, để nhận thức đúng bản chất của vấn đề, thiết nghĩ chúng ta nên tiếp cận nó từ góc độ lý luận, nếu không sẽ rất khó để trả lời câu hỏi tại sao lại quy định người được thi hành án có nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

1. Thi hành án dân sự

Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa khoa học chính thống nào về khái niệm thi hành án dân sự. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu: thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền nhằm đưa bản án, quyết định của cơ quan tài phán đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Khái niệm này mặc dù còn có những vấn đề về lý luận cần phải bàn thêm. Tuy nhiên, trong nội dung bài này chúng tôi không đi sâu về khái niệm trên mà chỉ bàn về một số vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn xung quanh những quy định về việc xác minh của người được thi hành án theo quy định của LTHADS.

Những bản án, quyết định đưa ra thi hành được quy định cụ thể tại Điều 1 LTHADS gồm: “bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của Tòa án)”.  Như vậy, thực chất của hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án (hiện nay ở Tp. Hồ Chí Minh có thêm tổ chức Thừa phát lại) chủ yếu nhằm đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập từ bản án, quyết định của Tòa án.

2. Cơ sở của quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án

Trong hoạt động của mình, cơ quan thi hành án dân sự được sử dụng quyền lực Nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm hiệu lực thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Một nguyên tắc hiến định đó là “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” Điều 136 Hiếp pháp 1992. Tuy nhiên, quyền lực Nhà nước mà cơ quan thi hành án dân sự sử dụng để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định nói trên chỉ nằm trong một giới hạn theo quy định của pháp luật. Mức cao nhất của giới hạn đó là sử dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để buộc đương sự phải thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình phát sinh từ bản án, quyết đinh của Tòa án. Nhưng cần lưu ý là các biện pháp này cũng chỉ được thực hiện khi đương sự, người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án. Nghĩa là, cơ quan thi hành án chỉ có thể xử lý về mặt tài sản hoặc buộc đương sự thực hiện hoặc chấm dứt một hành vi đã được quy định rõ trong bản án, quyết định.

Giới hạn quyền lực nhà nước của cơ quan thi hành án dân sự không phải là những quy định hoàn toàn mang tính chủ quan, mà đó là những quy định có cơ sở lý luận và mang tính khách quan, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự là đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập từ bản án, quyết định của Tòa án. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này thực chất cũng như các giao dịch dân sự được Bộ luật dân sự điều chỉnh. Chính vì vậy, khi sử dụng quyền lực Nhà nước để căn thiệp vào các giao dịch hoặc quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự đều phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự. Còn những việc khác như bắt giữ người, khởi tố vụ án hình sự thì chỉ có thể đề nghị cơ quan khác thực hiện khi xét thấy có đủ căn cứ để áp dụng các biện pháp đó.

Chính do sự nhận thức không rõ ràng về giới hạn này, nên trong thực tế nhiều trường hợp đương sự, chủ yếu là người được thi hành án đã có những phản ứng gay gắt khi cơ quan thi hành án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho họ, do người phải thi hành án không có điều kiện thi hành. Họ yêu cầu cơ quan thi hành án phải có những biện pháp mạnh hơn đối với người phải thi hành án để bảo vệ quyền lợi cho họ và khi những yêu cầu đó không được đáp ứng thì họ cho rằng cơ quan thi hành án thiếu trách nhiệm hoặc cho rằng pháp luật không nghiêm minh. Trong những trường hợp này, thường thì Chấp hành viên rất khó để giải thích thỏa đáng cho người được thi hành án hiểu tại sao cơ quan thi hành án dân sự không thể thực hiện theo yêu cầu của họ.

Trong các giao dịch dân sự, các bên thực hiện trên nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và được pháp luật bảo vệ. Điều 4 BLDS quy định:

“Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.

Cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.”

Pháp luật bảo vệ các giao dịch dân sự trên bằng cơ chế tài phán: khi một trong các bên không tôn trọng, không thực hiện các cam kết, thỏa thuận thì tranh chấp phát sinh và các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì các giao dịch dân sự được xác lập trên nguyên tắc tự nguyện, các bên tự đến với nhau, tự giao kết với nhau nên Tòa án chỉ đóng vai trò là trọng tài để phân xử bên nào đúng, bên nào sai và đưa ra cách để khôi phục quyền lợi hợp pháp cho các bên. Vì vậy, để yêu cầu Tòa án giải quyết, bảo vệ quyền lợi cho mình thì các bên phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh, đây có thể nói là một nguyên tắc cơ bản “nguyên tắc tự bảo vệ” trong giải quyết tranh chấp dân sự. Điều 79 BLTTDS quy định: “Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp….” và Điều 165 quy định: “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Điều này cho thấy trong các tranh chấp dân sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên đương sự phải tự mình cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.

Khi bản án, quyết định của Tòa án về các tranh chấp dân sự có hiệu lực pháp luật sẽ xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên. Quyền và nghĩa vụ này là quyền và nghĩa vụ dân sự. Do đó, các bên có quyền tự do thỏa thuận với nhau để thực hiện mà không nhất thiết phải có sự can thiệp của cơ quan Nhà nước. Chỉ đến khi các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành. Lúc này mối quan hệ giữa người được thi hành án và người phải thi hành án vẫn nằm trong phạm vi các mối quan hệ dân sự. bản chất của mối quan hệ đó thể hiện rất rõ trong các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Cụ thể, các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về việc thi hành án trong hầu hết các giai đoạn. Cơ quan thi hành án chủ yếu đóng vai trò là người giám sát, đồng thời sử dụng các biện pháp vận động, thuyết phục để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình, việc sử dụng quyền lực nhà nước để tác động trực tiếp vào mối quan hệ này là tương đối hạn chế và chỉ tiến hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án khi các bên không thể thỏa thuận được với nhau và có đầy đủ các căn cứ thể hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.

Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy, kết quả xác minh điều kiện thi hành án có ý nghĩa hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết việc thi hành án. Nó là căn cứ, cơ sở để Chấp hành viên ra các quyết định trong quá trình tác nghiệp của mình. Kết quả xác minh điều kiện thi hành án có ý nghĩa như chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên yêu cầu trong vụ án dân sự. Vì thế, để bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người làm đơn yêu cầu thi hành án phải chứng minh được người phải thi hành án có điều kiện thi hành, làm cơ sở cho cơ quan thi hành án thụ lý hồ sơ và tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Đương sự không thể cứ giao dịch với nhau bằng niềm tin, thiếu cơ sở thực tế và không có tài sản đảm bảo, khi phát sinh tranh chấp thì yêu cầu Tòa án giải quyết rồi phó mặc cho cơ quan thi hành án tiến hành xác minh, truy tìm tài sản của người phải thi hành án mà họ thì không có trách nhiệm gì để góp phần bảo vệ quyền lợi của mình như trước đây.

Từ cách tiếp cận trên cho thấy Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định người làm đơn yêu cầu thi hành án có nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và có trách nhiệm xác minh (Trong LTHADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa nói rõ đây là “nghĩa vụ” của người được thi hành án) là một quy định có cơ sở về mặt lý luận, xuất phát từ các nguyên cơ bản của giao dịch dân sự và các nguyên tắc về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đó. Quy định đã thể hiện đúng bản chất mối quan hệ dân sự giữa người được thi hành án, người phải thi hành án và cơ quan thi hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Ý nghĩa thực tiễn:

Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành, những quy định trên lần đầu tiên áp dụng vào thực tế đã gặp phải sự phản ứng của nhiều người và ngay cả các Chấp hành viên của cơ quan thi hành án cũng có người không đồng tình. Họ cho rằng người làm đơn yêu cầu thi hành án có trách nhiệm xác minh, cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là không hợp lý. Vì việc xác minh điều kiện thi hành án là một công việc khó khăn, phức tạp. Thậm chí, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên là người có đầy đủ thẩm quyền do Nhà nước quy định nhưng khi tiến hành xác minh vẫn gặp phải những trở ngại nhất định. Do đó, việc để cho đương sự tự mình xác minh là không khả thi và làm khó cho người dân. Còn đối với người làm đơn yêu cầu thi hành án, khi được công chức thi hành án yêu cầu họ cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và giải thích cho họ về nghĩa vụ xác minh. Lúc đầu, hầu hết họ đều có cảm giác hụt hẩng, thất vọng vì cho rằng cơ quan thi hành án thiếu trách nhiệm, không quan tâm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân.

Nguyên nhân dẫn đến những phản ứng trên là điều dễ hiểu, vì trong suốt một thời gian dài từ trước cho đến khi có LTHADS, chúng ta vẫn luôn có cách nghĩ rằng những việc tranh chấp đã được Tòa án thụ lý giải quyết, thì cơ quan thi hành án phải có trách nhiệm thi hành, có trách nhiệm sử dụng quyền lực Nhà nước bằng mọi cách để bảo vệ, khôi phục quyền lợi cho các bên. Người dân vẫn luôn nghĩ việc cơ quan thi hành án buộc người phải thi hành án nộp tiền hoặc xử lý phát mãi tài sản là một việc hết sức đơn giản và nhanh chóng, họ không biết rằng mặc dù người phải thi hành án có tài sản, có điều kiện thi hành nhưng nếu họ không tự nguyện thi hành thì việc cưỡng chế xử lý tài sản của họ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tiến hành và phải tốn rất nhiều thời gian, công sức. Vì thế có không ít người sau khi được Tòa án cấp bản án, quyết định thì họ cầm ngay sang cơ quan thi hành án với một thái độ tự đắc hỏi cán bộ thi hành án “có tiền chưa?, khi nào thì nhận được tiền?” họ làm như tiền đã có sẵn ở cơ quan thi hành án, chỉ cần Tòa án xử xong là có thể lấy lại tiền ngay hoặc ít ra thì cũng phải cho họ biết được chính xác thời gian giải quyết thi hành án là bao lâu. Nhưng khi được cán bộ thi hành án giải thích việc phải làm đơn yêu cầu thi hành án và phải thực hiện theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định, hơn nữa không thể hứa trước được thời gian giải quyết vì còn phụ thuộc vào thiện chí của người phải thi hành án, thì họ lại tỏ thái độ khó chịu.

Người dân không nghĩ rằng, hiệu lực thi hành trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án không chỉ phụ thuộc vào việc tổ chức thi hành của cơ quan thi hành án dân sự mà quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập, phát sinh từ bản án, quyết định của Tòa án cũng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Đương sự có quyền tự thỏa thuận thực hiện trực tiếp với nhau, người có quyền cũng có thể từ bỏ quyền lợi của mình. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp sau khi có phán quyết của Tòa án thì các bên đã trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau mà không cần có sự can thiệp nào của cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, nếu các bên không thể ngồi lại để thỏa thuận với nhau thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng thừa phát lại thi hành.

Việc thi hành nghĩa vụ về tài sản hoặc nghĩa vụ trả tiền khi cơ quan thi hành án tổ chức thi hành chỉ đạt được kết quả khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành (có tài sản). Do đó, để bảo đảm quyền lợi của mình một cách tốt nhất, thì người được thi hành án phải chủ động, tích cực trong việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản cũng như yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm. Trong trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành, thì cho dù cơ quan thi hành án có thụ lý đơn và tổ chức thi hành cũng không thể nào đạt được mục đích. Do đó, khi so sánh trường hợp cơ quan thi hành án thụ lý đơn như trước đây theo PLTHADS, không yêu cầu cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án và trường hợp theo quy định của LTHADS hiện nay. Chúng ta thấy, rõ ràng việc cơ quan thi hành án thụ lý đơn yêu cầu trong khi người phải thi hành án không có điều kiện thi hành thì cuối cùng chúng ta cũng phải ra quyết định trả lại đơn yêu cầu. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả công tác thi hành án mà còn làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, tạo tâm lý xem thường hiệu lực phán quyết của Tòa án ở người phải thi hành án, còn đối với người được thi hành án họ sẽ cảm thấy mất niềm tin vào cơ quan Nhà nước, vào công lý. Ngược lại, nếu chúng ta thụ lý đơn khi có đủ căn cứ theo quy định của LTHADS thì đương nhiên hiệu quả công tác thi hành án sẽ cao hơn.

Như vậy, việc quy định người làm đơn yêu cầu thi hành án có trách nhiệm xác minh, cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án theo quy định của LTHADS làm cơ sở cho cơ quan thi hành án thụ lý, giải quyết sẽ có các ý nghĩa sau:

Thứ nhất, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thi hành án, giảm bớt áp lực đối với cơ quan thi hành án vì không phải thụ lý những việc không có điều kiện thi hành;

Thứ hai, xác định đúng bản chất của mối quan hệ dân sự trong việc thi hành án. Hơn nữa, quy định này buộc người được thi hành án phải có trách nhiệm hơn trong việc tự bảo vệ mình, tránh trường hợp những người này ỉ lại, phó mặc cho cơ quan thi hành án như trước đây;

Thứ ba, góp phần nâng cao ý thức của người dân trong tiến hành các giao dịch dân sự, vì họ phải biết rằng khi tranh chấp xảy ra, dù phần thắng thuộc về họ nhưng nếu người phải thi hành án không có tài sản, không có điều kiện thi hành thì quyền lợi của họ trên thực tế cũng không được bảo đảm.

3. Một số quy định của pháp luật thi hành án dân sự về trách nhiệm của người làm đơn yêu cầu thi hành án đối với việc xác minh, cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án

Như đã phân tích ở phần trên quy định trách nhiệm của người làm đơn yêu cầu thi hành án đối với việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là một chế định mới, mang tính đột phá của Luật thi hành án dân sự năm 2008. Vấn đề này lần đầu tiên chính thức được đưa vào nội dung đơn yêu cầu thi hành án như là một điều kiện bắt buộc. Tại điểm đ khoản 1 Điều 31 LTHADS quy định đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây:

“a) Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;

b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;

c) Họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;

d) Nội dung yêu cầu thi hành án;

đ) Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.”

Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự (NĐ58) hướng dẫn vấn đề này như sau:

 “Đơn yêu cầu thi hành án phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các nội dung theo quy định hoặc không nêu rõ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhưng không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án.”

Về trách nhiệm xác minh của đương sự Điều 6 Nghị định 58 quy định:

“1. Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án ủy quyền có yêu cầu. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đó từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.

Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án, trừ trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết phải xác minh lại. Việc xác minh lại của Chấp hành viên được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp.

Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.

2. Người được thi hành án khi yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải xuất trình các tài liệu hoặc biên bản làm việc để chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy quyền đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ các thông tin về tài sản, đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án nhưng không có kết quả.

Việc xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân được coi là không có kết quả khi người được thi hành án hoặc người được ủy quyền chứng minh đã trực tiếp hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã quá thời hạn 01 tháng, kể từ ngày yêu cầu nhưng không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không có lý do chính đáng.”

Tiếp theo tại Điều 44 LTHADS quy định về điều kiện để đương sự yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành xác minh “…Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh…”

Về chi phí xác minh được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 73 LTHADS và tại khoản 1 Điều 31 Nghị định 58. Theo đó thì “Người được thi hành án có yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải trả các chi phí thực tế, hợp lý cho việc xác minh”

Hiện nay chế định trách nhiệm của đương sự về xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án chỉ mới có một số quy định trên. Qua thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong hai năm vừa qua, chúng tôi nhận thấy, những quy định trên là còn thiếu và còn có những bất cập hạn chế nhất định, gây không ít khó khăn cho cơ quan thi hành án và cả đương sự trong quá trình giải quyết việc thi hành án. Do đó, cần phải có những sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.

4. Một số hạn chế và bất cập

Nghĩa vụ của người được thi hành án về việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người được thi hành án là quy định mới của LTHADS. Do vậy, việc nhận thức vấn đề này của người được thi hành án, cá nhân, tổ chức nắm giữ thông tin tài sản của người phải thi hành án chưa được đầy đủ. Bên cạnh đó các văn bản hướng dẫn thi hành lại chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên trong thời gian qua việc áp dụng vào thực tế đã gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 33 LTHADS và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 58 thì đơn yêu cầu thi hành án phải có nội dung “thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án”. Nếu nội dung đơn không nêu rõ và “không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án”. Như vậy, nội dung đương sự cần bổ sung ở đây được hiểu là bổ sung thông tin, kết quả xác minh hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành xác minh. Tuy nhiên, khi yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành xác minh thì đương sự phải “ xuất trình các tài liệu hoặc biên bản làm việc để chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy quyền đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ các thông tin về tài sản, đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án nhưng không có kết quả”.

Quy định trên cho thấy, việc xác minh của người được thi hành án phải tiến hành trước khi nộp đơn yêu cầu thi hành án hoặc trước khi ra quyết định thi hành án, và đây là một quy định không có trường hợp ngoại lệ. Theo chúng tôi cách quy định như vậy là chưa hợp lý, vì:

Một là, không phải mọi việc yêu cầu thi hành án đều cần đến thông tin tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Ví dụ, trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên buộc một người phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc nhất định hoặc trường hợp đối tượng tranh chấp là những tài sản cụ thể thì thông tin tài sản đã được nêu rõ trong bản án, quyết định. Do vậy, việc yêu cầu đương sự cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án trong những trường hợp này là điều không cần thiết.

Hai là, hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự vẫn chưa quy định rõ về hình thức, nội dung, biểu mẫu và cách thức tiến hành xác minh. Nên cả cơ quan thi hành án và đương sự rất lúng túng khi thực hiện các quy định trên. Do đó, việc áp dụng các quy định về xác minh của đương sự ở các cơ quan thi hành án chưa thống nhất và chưa đúng với quy định của LTHADS. Có nơi thì yêu cầu đương sự phải cung cấp văn bản xác minh, có nơi thì chỉ yêu cầu đương sự ghi trực tiếp thông tin tài sản vào đơn yêu cầu thi hành án và lập biên bản hoặc làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh, cũng có nơi thì vẫn thụ lý hồ sơ theo cách trước đây vẫn làm khi PLTHADS năm 2004 còn hiệu lực, nghĩa là đương sự cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cũng được mà không cung cấp thông tin vẫn thụ lý giải quyết. Thực trạng trên dẫn đến việc áp dụng tùy tiện các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Ba là, vấn đề xác minh của người được thi hành án hiện nay vẫn chưa được quy định một cách đồng bộ giữa các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản chuyên ngành khác. Hơn nữa, vẫn chưa có những chế tài cụ thể đối với những trường hợp từ chối cung cấp thông tin cho đương sự. Do đó, nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân nắm giữ thông tin tài sản vẫn còn từ chối cung cấp thông tin cho người được thi hành án, vì họ viện dẫn các quy định của luật chuyên ngành và cho rằng trong đó không có quy định cụ thể nào cho thấy người được thi hành án là đối tượng được cung cấp thông tin.

Bốn là, ý thức pháp luật của một bộ phận người dân hiện nay còn hạn chế. Đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn thì quy định trách nhiệm xác minh đối với họ là một đòi hỏi khá cao, khó có thể thực hiện được.

Năm là, từ những hạn chế bất cập trên dẫn đến một vấn đề nữa là kết quả xác minh của đương sự không rõ ràng, chưa đủ cơ sở công nhận làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án. Nên hầu hết các trường hợp Chấp hành viên đều phải tiến hành xác minh lại, gây mất thời gian, lãng phí công sức tiền bạc cho các bên.

Thứ hai, tại điểm a khoản 2 Điều 73 LTHADS và khoản 1 Điều 31 Nghị định 58 quy định: “Người được thi hành án có yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải trả các chi phí thực tế, hợp lý cho việc xác minh”. Tuy nhiên, sau hơn hai năm LTHADS có hiệu lực thi hành đến nay vẫn chưa có hướng dẫn nào về việc thu, nộp khoản phí trên. Do vậy, thực tế hiện nay Chấp hành viên vẫn phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự nhưng chưa có căn cứ để tính khoản phí này.

Thứ ba, quy định người được thi hành án có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và kết quả xác minh được xem là căn cứ để cơ quan thi hành án thụ lý hồ sơ, ra quyết định thi hành án hoặc không thụ lý, đã làm phát sinh vướng mắc trong việc tính thời hiệu yêu cầu thi hành án. Điều 30 LTHADS quy định:

“1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

2. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.

3. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.”

 Như vậy, trong trường hợp người làm đơn yêu cầu thi hành án không nêu rõ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, và cũng không thể bổ sung đầy đủ nội dung đơn yêu cầu thi hành án theo thông báo của cơ quan thi hành án. Những trường hợp này, nếu áp dụng đúng theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thì rõ ràng cơ quan thi hành án không có đủ căn cứ để thụ lý, ra quyết định thi hành án. Vậy, thời hiệu yêu cầu thi hành án của đương sự là 05 năm được tính như thế nào? Có tính kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, hay kể từ ngày đương sự có đơn yêu cầu thi hành án nhưng không được cơ quan thi hành án thụ lý giải quyết?. Đây là vấn đề mà cơ quan thi hành án sẽ gặp phải trong thời gian tới, khi mà những quy định về trách nhiệm xác minh của đương sự được áp dụng một cách triệt để và thống nhất.

Thứ tư, khi xem xét một cách tổng thể các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với vấn đề trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Chúng tôi thấy, hầu hết các quy định này chỉ mới tập trung về mặt hình thức, điều kiện mà chưa có sự quan tâm cần thiết về mặt nội dung. Pháp luật chỉ mới quy định người làm đơn yêu cầu thi hành án có trách nhiệm xác minh, thông tin tài sản và điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, mà không có quy định nào nói rõ kết quả xác minh phải thể hiện như thế nào mới được chấp nhận làm căn cứ nhận đơn và tổ chức thi hành. Thực tế thì nội dung thể hiện trong văn bản xác minh mới là điều quan trọng, quyết định việc thi hành án có thể đạt được kết quả hay không. Do đó, nếu chúng ta chỉ quy định văn bản xác minh là điều kiện bắt buộc phải có làm cơ sở để cơ quan thi hành án thụ lý, giải quyết việc thi hành án mà không quan tâm tới nội dung bên trong kết quả xác minh, thì sẽ dẫn đến tình trạng đương sự thực hiện việc xác minh một cách đối phó, chiếu lệ. Người làm đơn yêu cầu thi hành án chỉ quan tâm đến việc xác minh như là một điều kiện, một loại giấy thông hành để được cơ quan thi hành án thụ lý, giải quyết. Như vậy, những quy định về trách nhiệm xác minh sẽ trở nên phản tác dụng, gây lãng phí thời gian, công sức cho các bên mà không có ý nghĩa thực tế trong việc giải quyết thi hành án. Vì vậy, pháp luật cần phải có những quy định cụ thể hơn về nội dung, kết quả xác minh. Cần phải có quy định mang tính định lượng tương đối về “điều kiện thi hành án” của người phải thi hành án thể hiện trong văn bản xác minh làm cơ sở giải quyết. Tránh những trường hợp thông tin tài sản trong văn bản xác minh thể hiện người phải thi hành án có tài sản giá trị rất nhỏ so với nghĩa vụ phải thi hành hoặc thông tin không rõ ràng nhưng cơ quan thi hành án vẫn phải thụ lý giải quyết, vì họ đã thực hiện đầy đủ các điều kiện để nộp đơn yêu cầu thi hành án.

Để giải quyết vấn đề trên, pháp luật cần quy định rõ phạm vi giải quyết của cơ quan thi hành án trong trường hợp thi hành theo đơn yêu cầu. Cơ quan thi hành án chỉ giải quyết việc thi hành án trong phạm vi thông tin tài sản, điều kiện thi hành án do đương sự cung cấp hay đó chỉ là điều kiện để thụ lý đơn còn cơ quan thi hành án sẽ chủ động tiến hành mọi hoạt động xác minh khi cần thiết mà không cần đương sự yêu cầu?.

Trên đây là những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn hết sức quan trọng, giải quyết tốt các vấn đề này là cơ sở cần thiết để quy định về xác minh như đã phân tích đi vào cuộc sống tạo nên những bước đột phá mới góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

5. Kiến nghị:

Như đã trình bày ở phần trên, quy định người được thi hành án có trách nhiệm xác minh, cung cấp thông tin hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là một bước đột phá có ý nghĩa thực tiễn cao, tạo cho người dân thói quen chủ động tự bảo vệ mình trong các giao dịch dân sự trước khi nhờ tới sự can thiệp của các cơ quan chức năng. Mặt khác, những quy định này còn góp phần làm rõ thêm các quan hệ pháp luật trong quá trình thi hành án dân sự, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình đó. Để những quy định này đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả của nó cần phải có một khoảng thời gian nhất định, đồng thời pháp luật cần phải có những quy định rõ ràng, cụ thể và đồng bộ, tạo điều kiện để các đương sự, cơ quan thi hành án cũng như các cơ quan tổ chức có liên quan thuận lợi hơn trong việc áp dụng pháp luật.

Để góp phần vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nói chung cũng như quy định về nghĩa vụ xác minh của đương sư, chúng tôi xin có một số kiến nghị sau:

a) Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Khi có những chính sách, quy định pháp luật mới ra đời thì vấn đề quan trọng nhất để đưa những chính sách, quy định đó vào cuộc sống, chính là công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi người cùng biết cùng thực hiện. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã có hiệu lực thi hành hơn hai năm. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền phổ biến Luật thi hành án dân sự còn có những hạn chế nhất định, chưa được sự quan tâm đúng mức của các cơ quan truyền thông. Vì vậy, số người dân biết về Luật Thi hành án còn rất hạn chế, thậm chí nhiều cán bộ cơ quan Nhà nước có liên quan đến công tác thi hành án dân sự cũng không biết đến sự ra đời của Luật thi hành án. Mới đây tại địa phương chúng tôi đã có trường hợp có anh công an phường đã trả lời thẳng với người được thi hành án là “ông không có quyền xác minh!. Chỉ khi nào cơ quan thi hành án có văn bản yêu cầu thì chúng tôi mới cung cấp thông tin”, đây chỉ là trường hợp người được thi hành án yêu cầu CA xác nhận nơi cư trú của người phải thi hành án. Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến LTHADS nói chung và những quy định về xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin tài sản của người được thi hành án nói riêng. Đối với những điểm mới quan trọng của Luật như những quy định trên thì phải tạo thành những điểm nhấn trong công tác tuyên truyền để giúp người dân dễ hiểu, dễ nhớ. Trong công tác tuyên truyền, bên cạch những kênh thông tin truyền thống còn có một kênh khác đóng vai trò rất quan trọng đó là thông qua tiếp xúc giữa công chức thi hành án với các đương sự, nhất là đối với những quy định mới, mang tính đột phá, thông thường khi ban hành sẽ gặp phải nhiều luồng ý kiến, nhiều phản ứng khác nhau, có khi là trái chiều. Vì vậy, Chấp hành viên phải là người nắm rõ các quy định đó và phải biết cách giải thích làm sao cho đương sự hiểu và đồng thuận với những quy định mới này. Đây không phải là vấn đề đơn giản, bởi vì để làm được điều đó Chấp hành viên ngoài việc nắm vững Luật thực định, còn phải hiểu rõ cơ sở lý luận của các quy định đồng thời còn phải có thêm một số kỹ nằng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải thích thuyết phục… Làm tốt công tác tuyền truyền, phổ biến là bước đầu quan trọng tạo tiền đề cho sự thành công của các chính sách, pháp luật của nhà nước nói chung và Luật thi hành án dân sự nói riêng.

b) Cần có văn bản hướng dẫn thi hành một cách đồng bộ và thống nhất

Trước hết cần có văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 31 LTHADS về nội dung đơn yêu cầu phải có “ Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.” văn bản hướng dẫn này cần phải giải quyết các vấn đề sau:

Phải xác định rõ đơn yêu cầu thi hành án phải có“ Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án” thì thông tin này thể hiện bằng các giấy tờ, kết quả xác minh kèm theo đơn yêu cầu, hay chỉ cần ghi thông tin đó trực tiếp lên đơn yêu cầu là hợp lệ;

Xây dựng biểu mẫu, quy định về hình thức, nội dung xác minh để tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự khi tự mình thực hiện việc xác minh, đồng thời tạo sự thống nhất giữa các cơ quan thi hành án trong việc thụ lý đơn yêu cầu thi hành án;

Quy định cụ thể những trường hợp cần thiết phải có kết quả xác minh của đương sự kèm theo đơn yêu cầu thi hành án và những trường hợp không bắt buộc phải có kết quả xác minh cũng như thông tin kèm theo. Như đã phân tích, không phải mọi trường hợp yêu cầu thi hành án đều liên quan đến tài sản. Hơn nữa có những tranh chấp đối tượng là những tài sản cụ thể đã được nêu rõ trong bản án, quyết định. Do đó, việc yêu cầu cung cấp thông tin hay kết quả xác minh trong những trường hợp này là thừa và không hợp lý;

Đối với những trường hợp việc cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là điều kiện bắt buộc, thì cần phải có những quy định mang tính định lượng tương đối thể hiện trong nội dung của kết quả xác minh. Nghĩa là, cần quy định kết quả xác minh phải thể hiện được nội dung người phải thi hành án có điều kiện thi hành, có tài sản để tránh trường hợp đương sự chỉ thực hiện việc xác minh như là một biện pháp đối phó với thủ tục nhận đơn mà không có giá trị thi hành trên thực tế.

c) Một số vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm xác minh của đương sự:

Thứ nhất, quy định cụ thể về phạm vi, trách nhiệm của cơ quan thi hành án trong những trường hợp đương sự cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Đối với những trường hợp này thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản đã được đương sự cung cấp thông tin, hay cơ quan thi hành án được quyền chủ động tiến hành xác minh và xử lý bất kỳ tài sản nào khác của người phải thi hành án, hay chỉ tiến hành xác minh xử lý khi có yêu cầu của người được thi hành án?. Những vấn đề này cần được quy định rõ để tạo sự chủ động, linh hoạt cho cơ quan thi hành án cũng như đương sự trong quá trình giải quyết việc thi hành án.

Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn việc thu khoản phí xác minh khi đương sự yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh để có cơ sở thu, chi khoản phí này một cách rõ ràng minh bạch, tránh những vấn đề tiêu cực có thể xảy ra. Bên cạch đó cũng nên quy định cả khoản phí xác minh khi đương sự yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin. Vì trong trường hợp này nơi nắm giữ thông tin đóng vai trò là bên cung cấp dịch vụ vì vậy họ cũng cần phải được trả một khoản phí nhất định. Khoản phí này còn có ý nghĩa nâng cao trách nhiệm của bên cung cấp thông tin. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm bảo mật thông tin đối với đương sự khi tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, những thông tin họ được cung cấp chỉ được sử dụng để phục vụ cho việc giải quyết việc thi hành án. Ngoài những vấn đề trên thì pháp luật về thi hành án dân sự cũng như các ngành luật có liên quan phải có những chế tài cụ thể để xử lý những trường hợp từ chối cung cấp thông tin cho đương sự mà không có lý do chính đáng.

Thứ ba, nên có quy định về tỉ lệ ưu tiên thanh toán cho người cung cấp thông tin, kết quả xác minh chính xác được công nhận làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án trong trường hợp một người phải thi hành án cho nhiều người. Quy định này nhằm khuyến khích những người được thi hành án tích cực, chủ động hơn trong việc xác minh điều kiện thi hành án, tránh trường hợp những người này đùn đẩy việc xác minh cho nhau hoặc cố tình che dấu thông tin tài sản. Trường hợp người được thi hành án cố tình không cung cấp thông tin tài sản cho cơ quan thi hành án đã xảy ra trên thực tế, vì họ biết nếu cung cấp thông tin tài sản của người phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án sẽ kê biên, phát mãi và thanh toán cho những người cùng được thi hành án mà không ưu tiên thanh toán cho người cung cấp thông tin vì tài sản này không phải là tài sản bảo đảm cho khoản vay của họ. Người này đã chấp nhận để cho cơ quan thi hành án trả lại đơn yêu cầu cho tất cả những người được thi hành án. Sau đó chờ “cơ hội” để một mình làm đơn yêu cầu thi hành án trở lại.

Thứ tư, việc quy định người được thi hành án có trách nhiệm xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Đồng thời góp phần nâng cao trách nhiệm của người được thi hành án trong quá trình giải quyết việc thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay việc đương sự tự mình xác minh điều kiện thi hành án không phải là một công việc dễ dàng thực hiện. Vì ngay cả Chấp hành viên khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án cũng gặp phải không ít khó khăn, trở ngại. Hơn nữa, có những loại việc cần có sự can thiệp kịp thời của cơ quan Nhà nước để đảm bảo quyền lợi của người dân. Ví dụ: các khoản được thi hành án của người lao động, khoản cấp dưỡng nuôi con… Bên cạnh đó cũng có những nghĩa vụ không xuất phát từ các giao dịch dân sự thông thường như các khoản bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… trong các vụ án hình sự. Do đó, pháp luật về thi hành án dân sự cần có những quy định mở để tạo điều kiện cho những người thực sự không có khả năng tiến hành việc xác minh hoặc những người cần được pháp luật bảo vệ được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh và thụ lý giải quyết.  

Trên đây là một số vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn về nghĩa vụ của người được thi hành án trong việc xác minh, cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành án khi làm đơn yêu cầu thi hành án. Mặc dù, đây là điểm mới, tiến bộ của LTHADS, nhưng do các quy định hiện này còn một số hạn chế bất cập, vì thế nó vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Để những quy định này thực sự phát huy được hiệu quả thì các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như các ngành luật khác có liên quan cần có những sửa đổi bổ sung phù hợp, tạo nên sự thống nhất, đồng bộ làm cơ sở cho việc thi hành và áp dụng pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân được thuận lợi, dễ dàng hơn.

Hồ Quân Chính – Chi cục THADS quận Thủ Đức