Quan điểm khác nhau về đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự

24/09/2018
Thực tiễn thi hành án dân sự cũng có những vụ việc rất khó thi hành, nhiều quan điểm nhìn nhận, đánh giá và vận dụng pháp luật chưa mang tính thống nhất. Trong đó có nguyên nhân xuất phát từ sự nhận thức điều luật khác nhau của các chủ thể thực thi pháp luật, nên cách vận dụng điều luật vào thực tiễn thi hành cũng khác nhau, dẫn đến vụ việc xử lý đôi khi bị sai sót mà hậu quả không lường hết được, có vụ việc chấp hành viên phải chịu trách nhiệm bồi thường nhà nước. Chính vì thế, chúng tôi muốn đưa ra một tình huống xảy ra trong thực tế mà có một số quan điểm nhận thức và áp dụng khác nhau trong khi tổ chức thi hành.Để làm sáng tỏ những vấn đề này và lựa chọn phương án giải quyết đúng đắn,, chúng tôi mong nhận được sự trao đổi bạn đọc. 


Vụ tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là vợ chồng bà Trịnh Thị S vừa là người được thi hành án của 03 Quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST và số 06/DSST ngày 20/9/2015 Tòa án nhân dân TP H, với tổng số tiền các bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C phải trả là 900 triệu đồng và lãi chậm thi hành án. Đồng thời, bà Trịnh Thị S là người phải thi hành án theo 02 Bản án số 11/DSST và số 12/DSST ngày  24/3/2014 với số tiền phải nộp án phí DSST của hai bản án là gần 100 triệu đồng,
Quá trình tổ chức thi hành các bản án và quyết định của Toà án, xác minh thực tế tại địa phương nơi các đương sự cư trú và làm việc cũng như các địa điểm nơi có tài sản, nói chung là xác minh theo đúng quy trình của Luật thi hành án dân sự (THADS) hiện hành, bà Trịnh Thị S là Giám đốc một công ty TNHH và tại thời điểm xác minh thi hành án thì công ty do bà S làm Giám đốc đã không còn hoạt động, kinh doanh thua lỗ và không có khả năng trả nợ, bản thân và gia đình bà S cũng không có tài sản, thu nhập gì để đảm bảo thi hành án theo trách nhiệm hữu hạn của quy định Luật Doanh nghiệp. Do đó, cơ quan thi hành án đã ra Quyết định chưa có điều kiện thi hành theo quy định tại Điều 44a Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đối với 02 Bản án số 11/DSST và số 12/DSST ngày  24/3/2014 về khoản tiền 100 triệu đồng án phí DSST. Sau đó, đến năm 2016, bà S mới có đơn yêu cầu thi hành đối với ba quyết định nói trên và cơ quan thi hành án đã thụ lý theo quy định.
Như vậy, bà S là người được thi hành của 03 Quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST và số 06/DSST ngày 20/9/2015. Qua xác minh điều kiện thi hành án thì vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C cho thấy hầu hết các hộ gia đình đó đều có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn. Trước đây bà S đầu tư tiền để cung ứng dầu cho ngư dân đi đánh bắt cá xa bờ, tuy nhiên vì làm ăn không hiệu quả nên đã bán tàu cá và ngư cụ để trả nợ Ngân hàng và trả cho bà S một phần và những chủ nợ khác. Tại thời điểm thi hành án, những người phải thi hành án không có nghề nghiệp ổn định, một số người còn đi biển (đi bạn), một số khác đi làm thuê kiếm sống, thu nhập bấp bênh, chỉ đủ lo cuộc sống tối thiểu của gia đình không tích lũy có tích lũy, do đó không có tiền để trả nợ cho bà S. Tuy nhiên, các cặp vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C đều có hoàn cảnh rất khó khăn nhưng đều có một ngôi nhà cấp 4 (chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất) là chỗ ở duy nhất để gia đình nương tựa sinh sống hàng ngày. Ngoài ra, không còn nguồn thu nhập nào khác để đảm bảo thi hành án và mỗi ngôi nhà đó có giá trị khoản hơn 100 triệu đồng.
Quá trình giải quyết việc thi hành án, bà Trịnh Thị S đã thỏa thuận với vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C không yêu cầu thi hành án, từ bỏ quyền lợi và yêu cầu cơ quan thi hành án ra Quyết định đình chỉ thi hành theo điểm c, khoản 1, Điều 50 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Vấn đề này lại nảy sinh nhiều quan điểm, ý kiến không thống nhất, việc thỏa thuận đó có phù hợp với quy định pháp luật không, ra quyết định đình chỉ có ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba không…Từ những nhìn nhận khác nhau trong việc áp dụng quy định pháp luật, cơ quan thi hành án đã tổ chức cuộc họp liên ngành và trong cuộc họp vẫn có những ý kiến cho rằng việc bà S rút đơn, yêu cầu đình chỉ thi hành không ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba, nên thỏa thuận giữa bà S với các cặp vợ chồng Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C không vi phạm điều cấm của pháp luật. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến ngược lại cho rằng việc thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba (án phí nộp Ngân sách Nhà nước). Chính vì vậy, vụ việc phải dừng lại do có nhiều quan điểm không thống nhất.
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự. Tác giả bài viết đưa ra một số quan điểm cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Bà Trịnh Thị S là người phải thi hành án phí của 02 Bản án số 11/DSST và số 12/DSST ngày 24/3/2014 là gần 100 triệu đồng. Đồng thời, là người được hưởng quyền lợi trong 03 Quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST và số 06/DSST ngày 20/9/2015 với số tiền 900 triệu đồng và lãi chậm thi hành án. Trường hợp bà S từ bỏ quyền lợi được hưởng của 03 Quyết định của Tòa án trong khi đó không còn tài sản thi hành khoản án phí thì việc yêu cầu đình chỉ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba là Nhà nước. Do đó, việc thỏa thuận đình chỉ đó là không phù hợp với quy định tại Điều 6; điểm c, khoản 1, Điều 50 Luật THADS; Khoản 3, Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ.
Quan điểm thứ hai cho rằng:
Việc bà S không yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành là ý chí tự nguyện của bà với các bên đương sự, bà S từ bỏ quyền lợi được hưởng theo án tuyên và xét thấy hoàn cảnh gia đình của cặp vợ chồng Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C thực tế rất khó khăn, không khả năng trả nợ, chỉ có một ngôi nhà duy nhất là nơi nương tựa cho cả gia đình, không còn tài sản nào khác để đảm bảo thi hành án. Tài sản đó chưa được Nhà nước cấp giấy chứng quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất thì cũng không thể tiến hành kê biên, xử lý được. Thứ nhất, nếu bán đấu giá sẽ không có người mua và việc hoàn thiện thủ tục pháp lý cho người mua được tài sản cũng rất phức tạp. Thứ hai, nếu có kê biên, xử lý được thì vấn đề cưỡng chế giao nhà cho người mua trúng đấu giá, cưỡng chế đưa cả gia đình ra khỏi nhà cũng gặp nhiều khó khăn …Do đó, liên ngành thống nhất cho rằng không ảnh hưởng đến người thứ ba thì chấp hành viên đề xuất Chi cục Trưởng ra quyết định đình chỉ theo điểm c, khoản 1, Điều 50 Luật THADS là đúng quy định. Còn việc bà S phải thi hành khoản án phí xử lý chưa điều kiện theo điểm a Khoản 1 Điều 44a Luật THADS là phù hợp hơn.
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Thống nhất với quan điểm thứ nhất, vì tại Điều 6; điểm c, khoản 1, Điều 50 Luật THADS; Khoản 3, Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 đã quy định: “…Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án”. Như vậy, chúng ta xem xét dựa trên các phương diện về cơ sở pháp lý có phù hợp không và đúng thực tế việc thỏa thuận đó có nhằm trốn tranh nghĩa vụ hay không, mới xác định được việc đình chỉ đó có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba…
Theo tình huống đưa ra thì bà S là người được thi hành với số tiền 900 triệu đồng và người phải thi hành trả cho bà S đều có tài sản là ngôi nhà cấp 4 có giá trị hàng trăm triệu đồng, có thể đảm bảo thi hành theo 03 Quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST và số 06/DSST ngày 20/9/2015. Tuy nhiên, không đủ đảm bảo hết nghĩa vụ dân sự trả cho bà S nhưng cũng có thể đảm bảo một phần đủ để bà S thi hành khoản án phí 100 triệu đồng cho Nhà nước. Trường hợp việc bà S và vợ chồng Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C thỏa thuận đình chỉ trốn tránh nghĩa vụ nộp án phí là không phù hợp, việc thỏa thuận không yêu cầu thi hành đó là vi phạm điều cấm, ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba. Còn quan điểm thứ hai  cho rằng, tài sản của những người phải thi hành án chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận về quyền tài sản thì không thể kê biên, xử lý được là hoàn toàn chưa phù hợp. Có những vụ việc cũng có thể áp dụng theo quy định tại Khoản 3 Điều 23 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ để cưỡng chế thi hành huống chi trong trường hợp này đưa ra, những người phải thi hành án có khó khăn nhưng đều có tài sản là ngôi nhà cấp 4. Như vậy, Chấp hành viên vận dụng theo Điều 110 Luật THADS để xử lý là phù hợp và đúng quy định pháp luật đối với tài sản có đăng ký đất đai, nhà ở mà chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận nhưng thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận… là bảo vệ được quyền lợi cho các bên đương sự và người thứ ba.
Song vẫn xét thấy điều kiện của người phải thi hành án rất khó khăn thì chấp hành viên cần phải nâng cao kỹ năng thuyết phục các cặp vợ chồng Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C nộp đủ số tiền 100 triệu đồng đủ để bà S thi hành khoản án phí còn lại đình chỉ theo thỏa thuận của các bên đương sự là hiệu quả hơn, vừa giải quyết được 05 quyết định thi hành xong và vừa bảo vệ được quyền lợi cho nhà nước và các bên đương sự.
Tác giả bài viết cũng đồng tình theo quan điểm thứ ba, nhưng chỉ là quan điểm cá nhân, để góp phần tìm ra giải pháp xử lý vừa hợp tình, hợp lý và đúng quy định pháp luật, tác giả bài viết mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của quý đồng nghiệp, nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc và trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động thi hành án dân sự.
Lê Lanh