Sign In

Những vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được thi hành án.

31/08/2015

Về nguyên tắc, cơ quan thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm đảm bảo việc thi hành các Bản án, Quyết định của Toà án, Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, để thực hiện tốt công việc, cơ quan thi hành án cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân hữu quan.
Trong phạm vi bài viết này, tôi đề cập đến mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án với cơ quan Đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản là quyền sử dụng đất, trong đó có nêu ra một số vấn đề vướng mắc do không thống nhất về cơ sở pháp lý để áp dụng trong quá trình giải quyết công việc liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện T. đã gây khó khăn cho những người được thi hành khi được giao quyền sử dụng đất. Từ đó, đưa ra một số hướng khắc phục trong công tác phối hợp như cách thức giải quyết của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.
        Trong quá trình thi hành án, có rất nhiều vụ việc liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất như: quyền sử dụng đất trong kê biên để đảm bảo thi hành án; chuyển giao quyền sử dụng đất cho người được thi hành án; giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá; giao quyền sử dụng đất cho người nhận quyền sử dụng đất để trừ vào số tiền được thi hành án, giao đất theo sự thoả thuận của các đương sự…
        Trách nhiệm của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong công tác  phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự bao gồm các nội dung sau:
        Một là, tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của người phải thi hành án đăng ký tại cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm ngay sau khi nhận được yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
        Hai là, thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án.
        Ba là, thu hồi, sửa đổi, huỷ các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy tờ đăng ký giao dịch bảo đảm đã cấp cho người phải thi hành án, thực hiện việc cấp mới các giấy tờ theo quy định của pháp luật.
        Bốn là, cung cấp các thông tin về quyền sử dụng đất đối với thửa đất là tài sản thi hành án để cơ quan thi hành án có cơ sở tổ chức thi hành.
        Ngoài ra, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong phạm vi địa bàn có trách nhiệm tham gia các Hội đồng cưỡng chế giao quyền sử dụng đất, Hội đồng kê biên quyền sử dụng đất…
        Trong thời gian qua, Chi cục thi hành án dân sự huyện T. nhận được một số đơn thư của công dân là những người được thi hành án trong các Bản án, Quyết định của Toà án xét xử về các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, đất do kê biên bán đấu giá thành, đất do hai bên đương sự thoả thuận nhận quyền sử dụng đất để trừ vào số tiền được thi hành án. Đây là những người được thi hành án đã được Chi cục thi hành án cùng các cơ quan hữu quan tiến hành giao quyền sử dụng đất trên thực tế. Nhưng khi họ làm thủ tục đề nghị Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định thì lại được Phòng Tài nguyên - Môi trường hướng dẫn làm đơn đề nghị Cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây đã được UBND huyện cấp cho người phải thi hành án. Chỉ khi giấy chứng nhận gốc được cơ quan thi hành án thu hồi thì Phòng Tài nguyên - Môi trường mới có căn cứ để huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho người được sử dụng đất theo Bản án, quyết định thi hành án.
         Theo như giải thích của Phòng Tài nguyên - Môi trường thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 49, Luật đất đai thì đối với các trường hợp người được thi hành án được nhận quyền sử dụng đất theo Bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, đất do người mua trúng đấu giá thành đều thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng khi cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải thu hồi, huỷ giấy chứng nhận gốc. Trong khi đó, cơ quan thi hành án lại giao diện tích đất theo thoả thuận của hai bên đương sự nhỏ hơn hoặc lớn hơn so với diện tích của Bản án, Quyết định của Toà án, hoặc không thu hồi được giấy chứng nhận gốc thì Phòng Tài nguyên - Môi trường không có căn cứ để trình UBND huyện thu hồi, huỷ để cấp mới. Vì vậy, theo họ tại Điều 116, Luật thi hành án dân sự quy định rất rõ việc: Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không thực hiện thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó trả giấy tờ để thi hành án. Vì vậy, Phòng Tài nguyên - Môi trường đã hướng dẫn công dân đề nghị Cơ quan thi hành án thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người phải thi hành án.
           Như vậy, rõ ràng có vấn đề hiểu chưa đúng về quy định pháp luật đối với Điều 116, Luật thi hành án dân sự về “Cưỡng chế trả giấy tờ”. Căn cứ Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì những Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thuộc những trường hợp phải thi hành ngay. Việc ra quyết định thi hành án trên cơ sở các nội dung của Bản án, Quyết định của Toà án theo quy định tại Điều 36, Luật thi hành án. Vì vậy, nếu trong Bản án, Quyết định của Toà án không tuyên thu hồi, hoặc buộc người phải thi hành án phải trả giấy tờ cho người được thi hành án thì cơ quan thi hành án không thể ra quyết định thu hồi. Đồng thời, theo Điều 70, căn cứ cưỡng chế thi hành án bao gồm: Quyết định, Bản án của Toà án, Quyết định thi hành án. Vì vậy, việc Bản án, Quyết định của Toà án không tuyên người phải thi hành án phải trả giấy tờ cho người được thi hành án thì cơ quan thi hành án không thể ra Quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án.
          Theo quan điểm của Chi cục thi hành án dân sự huyện T,  Khoản 5 điều 71; Biện pháp cưỡng chế; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.  Điều 111 Luật thi hành án dân sự ; Quy định:  Khi kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho Cơ quan THADS ( việc yêu cầu này đã có trong biên bản giải quyết, nhưng người phải thi hành án không giao nộp). do đó căn cứ Điều 178, Luật thi hành án dân sự thì trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm trong thi hành án dân sự là phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, hoặc thoả thuận khác về việc nhận quyền sử dụng đất ( sự thoả thuận phù hợp pháp luật, không trái đạo đức, phù hợp với sử dụng thực tế quy hoạch của đia phương). Cơ quan này cũng phải có trách nhiệm thu hồi, sửa đổi, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người phải thi hành án và thực hiện việc cấp mới các giấy tờ theo quy định của pháp luật. Cũng theo quy định tại Khoản 4, Điều 106, Luật thi hành án dân sự thì: Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất mà không có giấy chứng nhận hoặc không thu hồi giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
          Rõ ràng, căn cứ các quy định trên thì việc thu hồi, việc huỷ, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều thuộc thẩm quyền của cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất. Sau rất nhiều công văn và trao đổi giữa hai cơ quan nhưng chưa đi đến thống nhất, lãnh đạo cơ quan thi hành án đã chủ động tổ chức cuộc họp hai cơ quan có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân, lãnh đạo UBND huyện. Tại cuộc họp, hai cơ quan đều bảo lưu quan điểm của mình. Mà nếu không tìm ra hướng giải quyết thì sẽ gây khó khăn cho công dân sau khi cơ quan thi hành án đã thực hiện thẩm quyền giao quyền sử dụng đất theo Bản án, Quyết định của Toà án. Vì vậy, cơ quan thi hành án đã đưa ra hướng sẽ bổ sung thêm một số thủ tục để Phòng Tài nguyên - Môi trường có căn cứ trình UBND huyện thu hồi, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ của người phải thi hành án để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, cụ thể:
         - Trong biên bản cưỡng chế giao quyền sử dụng đất sẽ thể hiện rõ việc cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người được thi hành án và đã yêu cầu người phải thi hành án xuất trình và tự nguyện giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số…. do UBND huyện cấp ngày, tháng, năm… nhưng người phải thi hành án cố tình không thực hiện.
         - Trong biên bản cưỡng chế giao quyền sử dụng đất sẽ thể hiện rõ việc cưỡng chế giao quyền sử dụng đất trên thực tế số diện tích đất vượt hoặc nhỏ hơn số diện tích được ghi trong giấy chứng nhận ( hoặc các đương sự thoả thuận nhận thực tế diện tích đất khác hơn số diện tích mà bản án, Quyết định của toà án đã tuyên ) sự thoả thuận này không trái luật và không trái đạo đức, phù hợp với thực tế sử dụng đất trong quy hoạch ở địa phương.
         - Phòng Tài Nguyên – Môi Trường căn cứ tài liệu do cơ quan thi hành án cấp ( Bản án, Quyết định thi hành án, biên bản cưỡng chế, biên bản thoả thuận của các đương sự về nhận đất, biên bản về việc không thu hồi được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ) căn cứ thực địa của thửa đất tiến hành đo đạc, trích lục lại thửa đất….
         - Sau đó, trên cơ sở này sẽ có công văn về việc đề nghị Phòng Tài nguyên - Môi trường trình UBND huyện thu hồi, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ để cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được thi hành án.
Như vậy, Phòng Tài nguyên - Môi trường sẽ có căn cứ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công dân. Mặc dù cuối cùng Phòng Tài nguyên - Môi trường cũng thống nhất thực hiện theo giải pháp của cơ quan thi hành án song đây cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Việc cần phải làm rõ chính là cơ sở pháp lý để áp dụng. Rõ ràng Điều 178 Luật thi hành án đã quy định trách nhiệm thuộc về cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng Luật đất đai, Nghị định 84/ NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư 17/2009 quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất…đều không quy định rõ trình tự thủ tục thực hiện việc cấp giấy chứng nhận cho những trường hợp người được sử dụng đất theo Bản án hoặc Quyết định của Toà án nhân dân, quyết định của cơ quan thi hành án… như quy định tại Khoản 5, khoản 6, Điều 49 Luật đất đai, từ đó dẫn đến lúng túng khi áp dụng pháp luật của cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và gây khó khăn cho người được thi hành án.
         Vì vậy, ngoài việc kiến nghị về việc quy định rõ hơn về trình tự thủ tục thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được thi hành án trong các trường hợp trên, tôi cũng muốn nêu vấn đề này ra để cùng trao đổi với đồng nghiệp và các đơn vị khác và muốn được tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp về việc giải quyết vướng mắc này trong công tác phối hợp với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong quá trình giải quyết thi hành án đối với các hồ sơ thi hành án liên quan đến quyền sử dụng đất.
                                       
                                          


Theo Hoàng Toàn

Các tin đã đưa ngày: