Trước hết, về thời hạn thỏa thuận về giá, thỏa thuận tổ chức thẩm định giá. Theo quy định tại Điều 98 Luật THADS: “ Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì CHV lập biên bản về thỏa thuận đó”…Quy định về thời hạn cho đương sự thỏa thuận xác định giá tài sản hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá hiện nay là chưa rõ ràng. Quy định ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá dẫn đến khi áp dụng luật, CHV phải thông báo cho đương sự thực hiện ngay lập tức việc thỏa thuận về giá hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá, mà không phải là sau khi kê biên hoặc thỏa thuận trong một thời hạn nhất định sau khi kê biên.
Trên thực tế CHV thường phải áp dụng giải pháp là khi thông báo kê biên tài sản CHV đồng thời thông báo về quyền xác định giá tài sản và quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá cho các đương sự và tại buổi kê biên CHV lập biên bản về nội dung thỏa thuận xác định giá tài sản kê biên hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên. Đồng thời CHV cũng phải áp dụng giải pháp linh hoạt phù hợp quy định về thời hạn tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS đó là trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày kê biên tài sản, CHV ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên. Do đó đề xuất sửa đổi quy định tại Điều 98 Luật THADS theo hướng quy định một khoảng thời hạn nhất định ( kể từ ngày tổ chức kê biên tài sản) để đương sự thỏa thuận xác định giá tài sản kê biên hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên.
Về các thời hạn liên quan đến định giá, đấu giá tài sản kê biên. Theo quy định tại Điều 101 Luật THADS, đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. CHV ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thỏa thuận. Quy định trên chỉ phù hợp cho trường hợp CHV trực tiếp thực hiện việc định giá. Còn trong trường hợp thẩm định giá thông qua tổ chức thẩm định giá tài sản thì việc quy định tính thời hạn tính từ thời điểm “kể từ ngày định giá” là chưa thực sự hợp lý. Thời điểm “kể từ ngày định giá” sẽ được xác định như thế nào? Nếu xem ngày chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá là ngày “định giá” thì không phù hợp với thực tế. Còn lấy ngày mà tổ chức thẩm định giá trực tiếp tiến hành xem xét tài sản để định giá cũng không hợp lý, vì sau khi xem xét, kiểm tra tài sản thì tổ chức thẩm định giá còn phải mất một khoảng thời gian để xem xét, so sánh đối chiếu thì mới ra được chứng thư thẩm định sau đó mới giao cho chấp hành viên, lúc này chấp hành viên mới làm thủ tục thông báo cho các bên đương sự nên khoảng thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày định giá để đương sự thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá là không khả thi. Do vậy, nên xem xét sửa lại quy định trên theo hướng “Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày được thông báo hợp lệ về giá tài sản kê biên”
Mốc thời hạn “kể từ ngày định giá” cũng áp dụng trong trường hợp ký hợp đồng đấu giá. Theo quy định tại Điều 101 Luật THADS, trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì CHV lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá. Như đã phân tích, mốc thời gian “kể từ ngày định giá” chưa được xác định cụ thể. Hơn nữa, việc quy định như trên còn bị chồng lấn về thời hạn.
Điều 101 Luật THADS quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày định giá tài sản phải ký hợp đồng đấu giá tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc quy định thời hạn 10 ngày là quá ngắn và bất hợp lý, không đủ thời gian để CHV thực hiện việc thông báo và cho các đương sự thỏa thuận về lựa chọn tổ chức đấu giá cũng như ký hợp đồng với tổ chức đấu giá. Do đó đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 101 Luật THADS theo hướng tăng thời hạn: “Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày các bên không thỏa thuận được về tổ chức đấu giá”.
Theo báo pháp luật việt nam