1. Một số bất cập trong quy định hiện hành
Luật Thi hành án dân sự đã quy định về việc thông báo quyết định thi hành án cho đương sự, cơ quan, tổ chức có liên quan (Điều 39 và các điều liên quan). Tuy nhiên, các quy định này mang tính hình thức, chưa thống nhất về thời hạn, thứ tự áp dụng và phương thức thông báo dẫn đến việc vẫn có nhiều sai sót từ thủ tục thông báo trong thi hành án dân sự. Cụ thể:
- Hiện nay, việc thông báo vẫn chủ yếu thực hiện trực tiếp đến người phải thi hành án hoặc người thân thích cùng cư trú với người phải thi hành án hoặc thông qua hình thức niêm yết (nếu không thực hiện được hình thức thông báo trực tiếp); chỉ khi có yêu cầu của đương sự và điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật mới được thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, việc thông báo trực tiếp thường không có kết quả do đương sự chống đối, cố tình vắng mặt dẫn đến việc cơ quan THADS phải thực hiện hình thức niêm yết công khai. Điều 42 Luật THADS hiện hành quy định hình thức niêm yết công khai chỉ được thực hiện khi không rõ địa chỉ của người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp.
Điều 40 Luật THADS hiện hành quy định: Trường hợp không có người thân thích cùng cư trú hoặc có nhưng họ từ chối nhận văn bản hoặc người thông báo vắng mặt không rõ thời điểm trở về thì phải lập biên bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến thì mới thực hiện theo hình thức niêm yết tại Điều 42. Các quy định này, trong thời gian áp dụng đã phát sinh một số lúng túng như thế nào là cùng cư trú và như thế nào là vắng mặt không rõ thời điểm trở về dẫn đến nhiều Chấp hành viên áp dụng chưa thống nhất, đương sự khiếu nại, tố cáo nhiều trong thủ tục thông báo.
Việc niêm yết công khai vẫn còn mang tính hình thức, khi chỉ niêm yết tại trụ sở cơ quan THADS, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa chỉ của người được thông báo, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo. Quy định này còn mang tính hình thức dẫn đến đương sự vẫn khiếu nại, tố cáo về việc không biết được việc thi hành án.
- Chưa có quy định rõ ràng về việc thông báo qua phương tiện điện tử mặc dù Luật Giao dịch điện tử năm 2023 đã quy định “thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng văn bản giấy.
- Một số quy trình thông báo theo thứ tự bắt buộc, gây kéo dài thời gian thi hành án, làm phát sinh khiếu nại, khiếu kiện trong nhiều vụ việc. Hiện nay, theo quy định hiện hành thì Chấp hành viên phải thực hiện việc thông báo trực tiếp theo quy định tại Điều 40, Điều 41 Luật THADS, chỉ thực hiện niêm yết khi đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 42 Luật THADS. Thực tiễn cho thấy, việc thông báo chậm, sai hình thức hoặc không đúng đối tượng là một trong những nguyên nhân phổ biến khiến Chấp hành viên bị kiến nghị, xử lý trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án và việc bảo đảm hiệu lực pháp luật của quyết định thi hành án.
- Việc thông báo thi hành án khi đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài đang gặp nhiều vướng mắc.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án thường gặp khó khăn trong việc thông báo các quyết định về thi hành án cho người đang ở nước ngoài do: Không xác định được địa chỉ cư trú cụ thể của người được thông báo; Đối tượng nào thực hiện tương trợ tư pháp? Đối tượng nào có thể thông báo theo Luật THADS, phương thức thông báo ra nước ngoài là gì; trường hợp tương trợ tư pháp không có kết quả thì giải quyết như thế nào. Pháp luật về THADS hiện hành thiếu quy định rõ ràng trong việc áp dụng thông báo ra nước ngoài, ngoài việc áp dụng hình thức tương trợ tư pháp dẫn đến lúng túng trong thông báo kéo dài thi hành án, ảnh hưởng quyền lợi đương sự. Do đó, thông báo qua phương tiện điện tử và công khai trên phương tiện thông tin đại chúng là xu hướng phù hợp. Tiết kiệm thời gian, chi phí và tăng khả năng tiếp cận thông tin của đương sự.
2. Cơ sở pháp lý và yêu cầu thực tiễn cần sửa đổi quy định về thông báo trong THADS
Việc sửa đổi các quy định về thông báo trong thi hành án dân sự là cần thiết và có căn cứ pháp lý, cụ thể:
- Luật Giao dịch điện tử năm 2023 khẳng định giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký số, văn bản điện tử. Tại Điều 38 của Luật này quy định giá trị pháp lý của thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử “trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng văn bản giấy”.
- Nghị định số 45/2020/NĐ-CP cho phép thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, theo đó “thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử: là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành toàn bộ hoặc một số bước thực hiện thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết công việc bằng phương tiện điện tử thông qua các dịch vụ công trực tuyến”.
- Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 23/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ đặt ra yêu cầu phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục vụ chuyển đổi số quốc gia.
- Nghị quyết số 52-NQ/TW, ban hành ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, là một văn bản quan trọng định hướng Việt Nam chủ động tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0). Nghị quyết này đặt ra mục tiêu và các chính sách cụ thể để thúc đẩy quá trình này, bao gồm cả việc duy trì và nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII).
- Chỉ đạo của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm “Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Về giải pháp, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp”.
Những định hướng này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật, nhất là hoàn thiện quy định tại Luật THADS (sửa đổi) để hợp pháp hóa việc sử dụng phương tiện điện tử trong thông báo thi hành án dân sự, tạo điều kiện rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động này.
3. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung tại Dự thảo Luật THADS(sửa đổi)
Dự thảo sửa đổi Luật Thi hành án dân sự đề xuất một số nội dung chính như sau:
- Đề xuất quy định mang tính linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức thông báo trong thi hành án dân sự. Theo đó, việc thông báo thi hành án được thực hiện theo một trong các phương thức sau đây: Thông báo trực tiếp bằng phương tiện điện tử hoặc qua văn phòng thi hành án dân sự, doanh nghiệp bưu chính hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; niêm yết công khai; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quy định này hướng tới việc ưu tiên áp dụng hình thức thông báo qua phương tiện điện tử như: Cổng Dịch vụ công, ứng dụng VNeID, các hệ thống quản lý chuyên ngành của cơ quan thi hành án dân sự, email...
- Đề xuất lược bỏ quy định bắt buộc áp dụng theo thứ tự giữa các hình thức thông báo như hiện hành (trực tiếp – niêm yết – phương tiện đại chúng) như phải thực hiện việc thông báo trực tiếp bằng văn bản giấy và phải chứng minh không thực hiện được việc thông báo trực tiếp mới được áp dụng hình thức niêm yết công khai, cho phép linh hoạt lựa chọn một hoặc đồng thời nhiều phương thức phù hợp với điều kiện thực tế của việc thi hành án.
- Đề xuất đơn giản thủ tục thông báo khi có yếu tố nước ngoài trong THADS. Theo đó, trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam đang ở nước ngoài thì việc thông báo được thực hiện trên phương tiện điện tử.
Quy định áp dụng hình thức thông báo linh hoạt trong trường hợp xác định được địa chỉ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài thì việc thông báo được thực hiện theo một trong các phương thức: tương trợ tư pháp về dân sự; dịch vụ bưu chính đến cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài cho người được thông báo là công dân Việt Nam; thông báo trên phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật hoặc các hình thức khác theo đề nghị của người được nhận thông báo.
Như vậy, việc bổ sung, hoàn thiện quy định về thông báo thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các bên, đồng thời thể hiện sự chủ động, thích ứng với quá trình chuyển đổi số quốc gia, phù hợp với thực tiễn, tránh lãng phí nguồn lực và giảm thiểu khiếu nại, khiếu kiện không đáng có.
Đậu Thị Hiền, Ban PC&NVTHADS
Theo Cổng TTĐT Cục Quản lý THADS - Bộ Tư pháp