Sign In

TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ: HOÃN, ĐÌNH CHỈ HAY TIẾN HÀNH XỬ LÝ TÀI SẢN

24/06/2019

       Căn cứ Bản án số 21/2014/DSST ngày 16/5/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku và xét đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku đã ban hành Quyết định thi hành án số 06/QĐ-CCTHA ngày 01/10/2014 buộc bà Lê Thị M, địa chỉ: Tổ 5, phường Ia Kring, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai phải thi hành khoản trả nợ 1.136.850.000 đồng và lãi chậm thi hành án cho người được thi hành án là bà Đào Thị V, trú tại: Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
 
       Chấp hành viên (CHV) được phân công tổ chức thi hành vụ việc đã thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục về thi hành án theo qui định. Theo kết quả xác minh điều kiện thi hành án của CHV cho thấy: Người phải thi hành án là bà Lê Thị M có tài sản để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 282899 do UBND thành phố Pleiku; nhà cấp 4C tại phường Ia Kring, thành phố Peiku, tỉnh Gia Lai. Trong khi CHV đang tổ chức thi hành án thì ngày 24/6/2015 người được thi hành án là Đào Thị V chết. Quá trình giải quyết, Chấp hành viên xác định người được THA chết không để lại di chúc về tài sản cũng như quyền, nghĩa vụ thi hành án đối với khoản tiền được thi hành án nêu trên. Để xử lý vụ việc theo qui định, Chấp hành viên đã ban hành Thông báo số 958/TB-CCTHA ngày 21/9/2015 và Thông báo số 485/TB-CCTHADS ngày 12/4/2016 thông báo cho người thân của bà V gồm: Chồng là ông Đinh Xuân C; các con là Đinh Thị Bích T, Đinh Thị Bích T, Đinh Thị Bích P, Đinh Vĩnh P và cha ruột là Đào Văn T thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền yêu cầu thi hành án theo qui định về việc chuyển giao nghĩa vụ thi hành án theo khoản 2, Điều 54 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung; các Thông báo nêu trên đã được tống đạt hợp lệ. Tuy nhiên, sau khi nhận được thông báo của CHV Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, người thân của bà V không thực hiện quyền của mình theo qui định pháp luật. Đối với Chấp hành viên từ khi thực hiện Thông báo cho đến nay không tiến hành giải quyết vụ việc, hồ sơ thi hành án đến nay đang tồn đọng chưa có hướng xử lý.
       Để giải quyết vụ việc nêu trên, có nhiều quan điểm xử lý khác nhau, cụ thể:
      - Quan điểm thứ nhất: Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku nên căn cứ điểm g, khoản 1 điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS năm 2008) để ban hành Quyết định hoãn thi hành án đối với vụ việc. Bởi lẽ:   
Theo quy định điểm b, khoản 1, Điều 15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 thì khi người phải thi hành án chết thì CHV thông báo trong hạn 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án….Tuy nhiên, Luật không quy định cụ thể đối với trường hợp người được THA chết thì phải thực hiện việc thông báo như thế nào? Do vậy, khi người được THA chết thì CHV phải làm việc, yêu cầu và xác định người thừa kế theo quy định pháp luật về thừa kế, giải thích rõ cho đương sự biết quyền yêu cầu làm đơn THA hoặc thông báo và ấn định thời gian cho đương sự có quyền thỏa thuận cử đại diện làm đơn yêu cầu thi hành án thời hạn là 5 năm hoặc chia di sản thừa kế theo pháp luật thừa kế.
     Mặt khác theo điểm g khoản 1 Điều 48 Luật THADS năm 2008 thì việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định theo khoản 2 Điều 54 Luật THADS này chưa thực hiện được do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải hoãn thi hành án. Do vậy, khi người được THA chết thì CHV thông báo và ấn định thời gian cụ thể cho đương sự có quyền thỏa thuận cử đại diện làm đơn yêu cầu thi hành án hoặc chia di sản thừa kế theo pháp luật thừa kế. Đồng thời, căn cứ điểm g, khoản 1 Điều 48 Luật THADS năm 2008 Chi cục THADS thành phố Pleiku ra Quyết định hoãn THA đối với vụ việc. Trường hợp đã xác định có người làm đơn yêu cầu hợp pháp hoặc di sản đã được phân chia thì Chi  cục THADS Pleiku ra Quyết định THA và CHV tiếp  tổ chức THA theo quy định pháp luật là phù hợp.
- Quan điểm thứ hai: Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku nên áp dụng điểm b, khoản 1 điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để ban hành Quyết định đình chỉ THA đối với vụ việc. Bởi lẽ:
Sau khi xác định người được thi hành án chết không để lại di chúc, CHV đã thông báo cho người thân của người được THA thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền yêu cầu thi hành án theo qui định pháp luật về việc chuyển giao nghĩa vụ THA theo khoản 2, Điều 54 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Mặc dù đã được thông báo hợp lệ, trong thời hạn luật định mà người thân của người được thi hành án không thực hiện quyền của mình theo qui định pháp luật thì nên xem đây là thuộc trường hợp người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích được chuyển giao không có hoặc không xác định được người thừa kế. Vì vậy, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku nên áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để ban hành Quyết định đình chỉ THA đối với vụ việc.
       - Quan điểm của người viết bài: Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku tiếp tục tổ chức thi hành án, phải tiến hành kê biên, xử lý tài sản của người phải THA và xử lý khoản tiền thu được từ việc bán tài sản thi hành án (nếu có) theo qui định tại khoản 5, Điều 49 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015. Bởi lẽ, quá trình xác minh, CHV đã xác định người phải THA là Lê Thị M có tài sản để đảm thi hành án, CHV cần lập thủ tục và tiến hành kê biên, xử lý tài sản để giải quyết. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản kê biên CHV thực hiện gửi vào tài khoản tại ngân hàng. Sau đó, tiến hành thông báo cho người thân của người được thi hành án là bà Đào Thị V thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền yêu cầu thi hành án theo qui định về việc chuyển giao nghĩa vụ THA theo khoản 2, Điều 54 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014. Hết thời hạn 05 năm kể từ ngày nhận được thông báo THA mà người thân của bà V không thực hiện quyền của mình theo qui định thì CHV xử lý khoản tiền THA thu được theo qui định tại khoản 5, Điều 49 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015.
       Trên đây là một số quan điểm xử lý khác nhau đối với vụ việc thi hành án nêu, để vụ việc được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, rất mong sự tham gia góp ý xử lý tình huống pháp lý của các đồng nghiệp. Xin trân trọng đề nghị.


Theo Nguyễn Hữu Đức - Phòng Kiểm tra GQKNTC

Các tin đã đưa ngày: