NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG:
Phần thứ nhất
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
I. GIAI ĐOẠN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN TRƯỚC NĂM 1993
1. Từ 1946 đến 1980
Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự trong chế độ mới; tiếp đó ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án.
Từ năm 1946 đến năm 1950 hoạt động thi hành án dân sự đã trở thành một lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp, do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã - một đơn vị, tổ chức của chính quyền cách mạng, gắn liền với Toà án và hoạt động xét xử thực hiện. Việc thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế. Thời kỳ này, mặc dù cơ cấu tổ chức còn rất đơn giản, số lượng cán bộ ít và nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, song Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại đã có nhiều cố gắng trong việc thi hành những bản án, mệnh lệnh của Thẩm phán, góp phần bảo đảm pháp chế của Nhà nước Cách mạng Việt Nam, đặt nền móng cho công tác thi hành án dân sự sau này.
Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác thi hành án dân sự có một sự thay đổi lớn về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Sắc lệnh quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”. Như vậy, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao. Năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới, đó là trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, từ năm 1960 tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thi hành dân sự. Ngày 14 tháng 11 năm 1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành án và hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp; xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án.
2. Từ 1981 đến 1993
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình. Hiến pháp năm 1980 đã đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12). Với tinh thần thượng tôn pháp luật đó, Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên đã ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi hành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành (Điều 137). Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan Thi hành án dân sự có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử phát triển của mình trong giai đoạn 1981-1989.
Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, vẫn có những quy định về quyền chủ động thi hành của cơ quan thi hành án trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án trong giai đoạn này.
Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án, đội ngũ cán bộ thi hành án đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án vẫn còn là một quy trình khép kín trong tòa án và phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án tòa án nhân dân địa phương.
II. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1993 ĐẾN NAY
1. Từ năm 1993 đến trước khi Luật thi hành án dân sự 2008 được ban hành
Đây là giai đoạn công tác thi hành án dân sự được chuyển giao hoàn toàn từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ thông qua việc Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự; liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự.
Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác thi hành án dân sự từ đó đến nay. Giai đoạn này đã chứng kiến sự phát triển của các cơ quan Thi hành án dân sự cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ Chấp hành viên, công chức Thi hành án dân sự.
Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, có hiệu lực kể từ ngày 17/4/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, các cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên. Theo quy định của Nghị định 30/CP, các cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu và tương đương. Ở Trung ương, Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc.
Ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11/4/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo quy định của Nghị định số 50/NĐ-CP, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành án dân sự trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.
Các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập. Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Thi hành án dân sự cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của Thi hành án dân sự cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan Thi hành án được tăng cường. Nhờ đó, công tác thi hành án dân sự ngày càng có sự chuyển biến tích cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vững trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
2. Từ năm 2008 đến nay
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Theo quy định của Nghị định số 74/NĐ-CP, ở Trung ương, Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật; cấp tỉnh có Cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và cấp huyện có Chi cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự.
Ngày 24 tháng 11 năm 2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính. Để triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính, ngày 25 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành hành chính, trong đó giao Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án hành chính; ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hành chính để chỉ đạo, hướng dẫn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về trình tự, thủ tục và những vấn đề khác có liên quan trong việc triển khai công tác thi hành án hành chính; thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi hành án hành chính….
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, ngày 23 tháng 11 năm 2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013. Ngày 30 tháng 10 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, ngoài 7 đơn vị được thành lập theo Nghị định số 74/2009/NĐ-CP, Tổng cục được thành lập thêm Vụ Quản lý Thi hành án hành chính (Vụ Nghiệp vụ 3), nâng tổng số đơn vị trực thuộc Tổng cục lên 8 đơn vị.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11 năm 2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, ngày 20 tháng 7 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Tiếp đó, ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 111/2015/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và những năm tiếp theo; ngày 06 tháng 02 năm 2017 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg về tăng cường công tác thi hành án dân sự; Chủ tịch nước đã nhiều lần làm việc và ban hành các văn bản chỉ đạo công tác thi hành án dân sự...
Nhìn lại lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển trong 71 năm qua có thể thấy, các cơ quan Thi hành án dân sự đã từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển và lớn mạnh không ngừng, những thay đổi về tổ chức, những thành tựu đã đạt được và cả những hạn chế đã để lại những bài học quý giá cho hiện tại và tương lai của các cơ quan Thi hành án dân sự. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, song các thế hệ cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự rất đỗi vinh dự và tự hào về những chặng đường mà mình đã đi qua.
Để ghi nhận bề dày truyền thống, sự lớn mạnh, trưởng thành của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và những nỗ lực, cố gắng không biết mệt mỏi của cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự, ngày 05 tháng 3 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 397/QĐ-TTg công nhận ngày 19 tháng 7 hàng năm là Ngày Truyền thống Thi hành án dân sự. Quyết định công nhận Ngày truyền thống Thi hành án dân sự của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các cơ quan thi hành án dân sự và mỗi công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng và ngành Tư pháp nước nhà nói chung, đó chính là nguồn động viên vô giá đối với mỗi cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự. Đáp lại sự quan tâm đó, đội ngũ người làm công tác thi hành án dân sự sẽ tiếp tục nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi để cùng nhau xây dựng Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.
Phần thứ hai
THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG NHỮNG NĂM QUA CỦA CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH TUYÊN QUANG
Ngày 5/3/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 397/QÐ-TTg lấy ngày 19/7 hàng năm là "Ngày Truyền thống Thi hành án dân sự", sự kiện này đánh dấu chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của Ngành. Nhân dịp kỷ niệm 71 năm Ngày truyền thống Thi hành án dân sự, chúng ta cùng ôn lại những thành tựu cơ bản từ năm 1993 đến nay của các cơ quan THADS tỉnh Tuyên Quang để để hiểu rõ hơn một chặng đường phấn đấu gian khổ và bền bỉ của nhiều thế hệ công chức các cơ quan Thi hành án dân sự, xứng đáng với niềm tin mà Đảng và Nhà nước giao cho Ngành Thi hành án dân sự.
Theo Nghị quyết ngày 06 tháng 10 năm 1992 của Quốc hội quy định một số điểm về việc thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; pháp lệnh THADS năm 1993 và Chỉ thị số 266-TTg ngày 02 tháng 6 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự, từ ngày 01 tháng 7 năm 1993 công tác thi hành án dân sự chính thức được bàn giao từ Tòa án nhân dân sang Ngành Tư pháp quản lý; Sở Tư pháp được giao quản lý công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh. Đây chính là dấu ấn quan trọng đánh dấu sự đổi mới quan trọng, căn bản về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Ngành Thi hành án dân sự. Sau khi tiếp nhận bàn giao nhiệm vụ từ Ngành Tòa án, Phòng Thi hành án tỉnh Tuyên Quang đã tham mưu với Giám đốc Sở Tư pháp trong việc tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án từ tỉnh đến các huyện, thị xã.
Tiếp theo đó thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 các cơ quan THADS của tỉnh Tuyên Quang tiếp tục được củng cố, kiện toàn thêm một bước. Nhưng qua quá trình thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, làm hạn chế không nhỏ đến hiệu quả công tác THADS, nên tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật THADS, đây là mốc quan trọng khẳng định hệ thống THADS được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Trên cơ sở đó ngày 06 tháng 11 năm 2009 Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-BTP thành lập Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang gồm có 03 phòng chuyên môn: Văn phòng, Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo, Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án, thời điểm đó chỉ có 06 Chi cục trực thuộc (tháng 3 năm 2011, thành lập thêm Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Bình, huyện mới được thành lập trên cơ sở chia, tách một số xã của huyện Na Hang và huyện Chiêm Hóa). Đến ngày 12 tháng 12 năm 2009 Sở Tư pháp đã chính thức bàn giao công tác quản lý về tổ chức đối với cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh cho Cục Thi hành án dân sự. Từ đó Cục THADS trực tiếp quản lý toàn diện công tác của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, trong đó có công tác tổ chức cán bộ, đây chính là điều kiện thuận lợi để phát triển đội ngũ công chức thi hành án theo hướng tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hoá; từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ công chức. Năm 1993 toàn ngành chỉ có 28 biên chế (trong đó tại Cục: 8 biên chế; các Chi cục: 20 biên chế và toàn ngành có 15 Chấp hành viên) thì đến năm 2009 tổng số biên chế toàn ngành: 79 biên chế (trong đó tại Cục: 20 biên chế; các Chi cục: 59 biên chế và toàn ngành có 31 Chấp hành viên).
Ngày 06 tháng 11 năm 2012 Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2878/QĐ-BTP sửa đổi Quyết định thành lập Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang gồm có 04 phòng chuyên môn: Văn phòng, Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo, Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án. Hiện nay tổng số biên chế toàn tỉnh đã thực hiện 90/90 biên chế được giao, trong đó có 01 Chấp hành viên Cao cấp; 11 Chấp hành viên Trung cấp, 28 Chấp hành viên sơ cấp, 08 Thẩm tra viên, 20 Thư ký Thi hành án, 03 chuyên viên và tương đương, 11 kế toán, 01 cán sự, 07 công chức khác và 28 Hợp đồng lao động theo Nghị định 68 của Chính phủ. Chất lượng đội ngũ công chức đã được nâng lên, trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới.
Những năm đầu sau khi tách ra từ Tòa án, các cơ quan THADS chưa có trụ sở làm việc riêng, trang thiết bị làm việc còn thiếu nhiều so với nhu cầu công việc nhưng đến nay các đơn vị đã có trụ sở làm việc riêng, trang thiết bị được trang bị cơ bản đầy đủ đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ mới, thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành và nhiệm vụ chuyên môn.
Với vị thế mới, các cơ quan THADS tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức thi hành án đạt kết quả khá tốt. Đặc biệt, sau khi tổ chức bộ máy được kiện toàn từ năm 2013 đến nay mặc dù tổng số việc thụ lý mới ngày càng tăng và phát sinh nhiều vụ việc phức tạp, khó thi hành nhưng với tinh thần làm việc quyết tâm cao, các cơ quan thi hành án dân sự luôn phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn. Cụ thể năm 2013, tổng số thụ lý là 4.286 việc tương ứng với gần 140 tỷ đồng, đã giải quyết xong là 2.926/3.121 việc có điều kiện thi hành tương ứng với hơn 38 tỷ đồng/ gần 45 tỷ đồng có điều kiện thi hành. Đến năm 2016, tổng số thụ lý là 5.342 việc tương ứng với hơn 104 tỷ đồng (số tiền có giảm so với năm 2013 nhưng tính chất phức tạp và khó thi hành hơn), đã giải quyết xong là 3.910/4.254 việc có điều kiện thi hành tương ứng với trên 21 tỷ đồng/ trên 74 tỷ đồng có điều kiện thi hành. Toàn tỉnh không phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài về công tác thi hành án dân sự.
Có được những kết quả như trên không thể thiếu được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Bộ, ngành, địa phương, cấp ủy, Lãnh đạo Cục, các cơ quan hữu quan cùng với sự quyết tâm không ngại khó, ngại khổ của các thế hệ công chức các cơ quan THADS tỉnh Tuyên Quang luôn chủ động, tích cực, có những giải pháp hữu hiệu trong công tác thi hành án dân sự góp phần bảo đảm tốt hơn hiệu lực của các bản án, quyết định của toà án, hiện thực hóa các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Công tác đảng, hoạt động của các đoàn thể và các mặt công tác khác cũng đều được Cục và các Chi cục quan tâm toàn diện và đều đạt kết quả tốt, chế độ, chính sách đối với công chức, người lao động luôn được đảm bảo, đã động viên công chức, người lao động yên tâm công tác, đồng lòng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Cùng với nhiệm vụ củng cố, kiện toàn tổ chức cán bộ, xây dựng ngành và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, các cơ quan Thi hành án dân sự của tỉnh Tuyên Quang đã chú trọng công tác chỉ đạo, phát động và tổ chức thực hiện phong trào thi đua rộng khắp, thu hút được đông đảo công chức, người lao động trong toàn ngành tham gia, thực sự đã tạo khí thế thi đua sôi nổi, khơi dậy nguồn động lực mạnh mẽ, động viên công chức, người lao động phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong công tác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong phong trào thi đua những năm qua, nhiều tập thể, cá nhân công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang đã được Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh biểu dương, khen thưởng với 10 lượt các đơn vị đạt Cờ thi đua xuất sắc của Ngành, đặc biệt ba năm liền 2007, 2008, 2009 Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang vinh dự được Bộ Tư pháp tặng Cờ đơn vị xuất sắc trong phong trào thi đua; được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba năm 2010; Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen có thành tích trong công tác thi hành án 5 năm (2001-2005), tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước (giai đoạn 2010 - 2015), tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước năm 2016, tặng Bằng khen trong phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2012-2015… và nhiều phần thưởng, danh hiệu thi đua khác do Bộ Tư pháp, UBND tỉnh trao tặng cho các cơ quan, công chức thi hành án dân sự trong tỉnh là minh chứng sinh động về sự đóng góp đáng kể công sức, trí tuệ của các thế hệ công chức, người lao động cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang.
Với khí thế thi đua lập thành tích xuất sắc chào mừng kỷ niệm 71 năm Ngày truyền thống Thi hành án dân sự đội ngũ công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang luôn tự hào về chặng đường đã qua và những kết quả đã đạt được để tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, quyết tâm, sáng tạo đề ra những phương hướng, giải pháp hiệu quả nhằm thực hiện thắng lợi, bền vững nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Hệ thống THADS đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với vị thế mới của Ngành, và để viết tiếp những trang rạng ngời truyền thống thi hành án dân sự ./.
Văn phòng Cục Thi hành án dân sự