Nhìn lại 75 năm lịch sử hình thành và phát triển, các cơ quan THADS có những mốc son đánh dấu và khẳng định sự trưởng thành như sau:
- Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến năm 1950
Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cùng với nhiệm vụ xóa bỏ bộ máy nhà nước của chế độ cũ, nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng là bắt tay vào xây dựng bộ máy nhà nước cách mạng để bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Hệ thống các cơ quan tư pháp là một bộ phận cấu thành quan trọng của bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ mới nhanh chóng được thiết lập. Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra tuyên cáo công bố danh sách nội các thống nhất quốc gia, trong đó có Bộ Tư pháp, đánh dấu sự ra đời của ngành Tư pháp nước ta. Tiếp đó, tại Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 đã thành lập các Tòa án quân sự, bước đầu thiết lập hệ thống cơ quan xét xử của chế độ mới. Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó, khoản 3 Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan THADS trong chế độ mới. Tiếp theo đó, ngày 19/7/1946, Quyền Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng đã ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án. Như vậy, từ năm 1946 - 1950 hoạt động THADS đã trở thành một lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp, do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện. Việc THADS thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế, mặc dù cơ cấu tổ chức còn rất đơn giản, song Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại đã có nhiều cố gắng, góp phần bảo đảm pháp chế của Nhà nước Cách mạng Việt Nam, đặt nền móng cho công tác THADS.
Năm 1950, trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến, đất nước ta thực hiện cải cách tư pháp lần thứ nhất để xây dựng nền “tư pháp nhân dân”, nền tư pháp phản ánh đầy đủ, toàn diện và sâu sắc những giá trị dân chủ, tiến bộ của chế độ mới. Để “công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng được hợp lý hơn và giản dị hơn” và “để giải quyết mau chóng những việc cấp bách về mặt Hộ, tránh sự thiệt hại cho đương sự và khỏi tổn phí cho đương sự phải lên Tòa án tỉnh”, ngày 22-5-1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85-SL đã khẳng định việc bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua hoạt động THADS là trách nhiệm của Nhà nước. Điều 19 của Sắc lệnh quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”. Theo quy định này, việc THADS do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Như vậy, công tác THADS đã có sự thay đổi lớn về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động, nhiệm vụ tổ chức THADS được giao cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác THADS đã được nâng cao.
- Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980
Năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, quy định trước đây Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử, vừa kiêm nhiệm công tác THADS thì từ năm 1960, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ THADS. Tiếp đó, ngày 14/11/1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành án, hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa án tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp, xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án. Như vậy giai đoạn từ 1960 - 1980, chúng ta phải thực hiện cả nhiệm vụ đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc và chống giặc ngoại xâm; đồng thời, thực hiện nhiệm vụ tổ chức THADS mà Đảng, Nhà nước giao. Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án về lý luận chính trị và nghiệp vụ, tăng cường phương tiện phục vụ công tác cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án. Đồng thời với việc ra đời chức danh Chấp hành viên và sự phát triển đội ngũ Chấp hành viên trong ngành Tòa án, hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, tăng cường và bảo vệ pháp chế XHCN.
- Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2008
Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng khi đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp 1980 đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12). Với tinh thần thượng tôn pháp luật, Hiến pháp 1980 lần đầu tiên đã ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi hành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành (Điều 137). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho công tác THADS có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử hành thành và phát triển.
Cũng ở thời điểm này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 được Quốc hội thông qua (ngày 03/7/1981) đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án. Sau khi được tái lập, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và có hệ thống tổ chức bộ máy đầy đủ hơn, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương, trong đó có công tác THADS. Vụ Quản lý Toà án địa phương trực thuộc Bộ Tư pháp, giúp Bộ trưởng quản lý về mặt tổ chức (cơ cấu, biên chế, nhân sự) và ngân sách các Toà án địa phương. Ngày 01/01/1982, Toà án nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ này sang Bộ Tư pháp.
Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THADS đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Trên cơ sở đó, Quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh năm 1989 và Quy chế Chấp hành viên thì chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Với việc ban hành Pháp lệnh THADS năm 1989, cơ chế thi hành án đã có bước thay đổi căn bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác THADS. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn THADS. THADS là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành án vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác THADS. Pháp lệnh THADS năm 1989 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta nói chung và lĩnh vực THADS nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án trong giai đoạn này. Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng không ngừng được củng cố và tăng cường, đội ngũ cán bộ thi hành án đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác THADS từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh THADS năm 1993; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 266-TTg ngày 02/6/1993 về triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác THADS; liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác THADS. Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác THADS. Giai đoạn này các cơ quan THADS đã được phát triển cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ Chấp hành viên, công chức.
Trên cơ sở Pháp lệnh THADS năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý công tác THADS, các cơ quan THADS và Chấp hành viên. Theo Nghị định 30/CP, các cơ quan THADS gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu và tương đương. Ở Trung ương, Cục Quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, chỉ đạo hoạt động THADS trong phạm vi toàn quốc. Trong thời gian này, công tác THADS ngày càng trở nên nặng nề hơn, được bổ sung nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định về kinh tế, lao động, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; giá trị tiền, tài sản phải thi hành ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Đứng trước những khó khăn, thử thách mới, ngành Tư pháp nói chung và các cơ quan THADS nói riêng đã có nhiều nỗ lực vượt bậc để xứng đáng với sự quan tâm, tin tưởng, giao trọng trách của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện khó khăn chung của đất nước, Chính phủ vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án cả về kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị và biên chế,.. nhằm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường xuyên theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo cụ thể, sát sao về công tác tư pháp, nhất là công tác THADS. Nhờ đó, công tác THADS giai đoạn này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, số việc và tiền thi hành xong tăng cao so với những năm trước đây.
Ngày 14/01/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh THADS năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về THADS, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan THADS và trình tự, thủ tục THADS. Trên cơ sở Pháp lệnh này, ngày 11/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS. Theo đó, Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về THADS trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện. Các cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập. THADS cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; THADS cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của THADS cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Đội ngũ cán bộ THADS tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan Thi hành án được tăng cường. Nhờ đó, công tác THADS ngày càng có sự chuyển biến tích cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước, góp phần quan trọng bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vững trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác THADS ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật THADS (đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất về công tác THADS). Như vậy, lần đầu tiên một đạo luật về THADS được Quốc hội thông qua, theo đó, hệ thống THADS đã được nâng lên một vị thế mới, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cụ thể: ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS. Theo đó, cơ chế quản lý từ chỗ song trùng trực thuộc trước đó được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Ở Trung ương, Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về THADS; cấp tỉnh có Cục THADS trực thuộc Tổng cục THADS và cấp huyện có Chi cục THADS trực thuộc Cục THADS. Đặc biệt, Luật THADS đã điều chỉnh toàn diện các vấn đề thuộc công tác THADS thay cho Pháp lệnh THADS năm 2004. Như vậy, trải qua 03 Pháp lệnh THADS của các năm 1989, 1993 và năm 2004, công tác THADS đã chính thức được điều chỉnh bằng một đạo luật của Quốc hội - Khẳng định tầm quan trọng và sự chín muồi của vị trí, vai trò công tác THADS trong đời sống xã hội và trong tổ chức bộ máy của nhà nước. Tiếp đó, Ngày 24/11/2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, trong đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý và thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Theo quy định tại Luật này, Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án hành chính. Cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý Nhà nước về công tác thi hành án hành chính trên phạm vi toàn quốc. Để triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính, ngày 25/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành án hành chính, trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan: Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan THADS bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án hành chính; ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hành chính để chỉ đạo, hướng dẫn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về trình tự, thủ tục và những vấn đề khác liên quan trong triển khai công tác thi hành án hành chính; thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi hành án hành chính,…
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, ngày 25/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS (có hiệu lực từ 01/7/2015). Ngày 18/7/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác THADS, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS trong thời gian tới. Tiếp đó, Quốc hội đã thông qua Luật Tố tụng Hành chính số 93/2015/QH13, Ngày 25/11/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 (thay thế Luật tố tụng hành chính số 64/2010/QH12). Để hướng dẫn thi hành Luật này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định thời hạn, trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Nhìn lại lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển trong 75 năm qua có thể thấy rằng các cơ quan THADS đã từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển và lớn mạnh không ngừng, những thay đổi về tổ chức, những thành tựu đạt được và cả những hạn chế đã để lại những bài học quý giá cho hiện tại và tương lai của các cơ quan THADS. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, song các thế hệ cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan THADS rất đỗi vinh dự và tự hào về những chặng đường mà mình đã đi qua. Ở bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, công chức, người lao động trong các cơ quan THADS vẫn đoàn kết, sáng tạo và nỗ lực phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao. Kết quả thi hành án về việc và về tiền nhìn chung đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, tăng dần qua từng giai đoạn; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS đã được kiểm soát và đi vào hoạt động nề nếp, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để ghi nhận bề dày truyền thống, sự lớn mạnh, trưởng thành của hệ thống tổ chức và những nỗ lực, cố gắng của cán bộ, công chức, người lao động, ngày 05/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 397/QĐ-TTg công nhận ngày 19 tháng 7 hàng năm là Ngày Truyền thống THADS. Quyết định của Thủ tướng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với từng đơn vị và mỗi công chức, người lao động, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với công tác THADS, đó là nguồn động viên vô giá đối với Hệ thống các các cơ quan THADS. Đáp lại sự quan tâm đó, Hệ thống các các cơ quan THADS nói chung và các cơ quan THADS tỉnh Bình Dương nói riêng sẽ tiếp tục nỗ lực, phấn đấu để cùng chung sức xây dựng hệ thống các cơ quan THADS ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu công việc trong giai đoạn mới.
Cùng trong lịch sử hình thành và phát triển vẻ vang đầy tự hào ấy, đội ngũ công chức, người lao động trong Hệ thống các cơ quan THADS đã có những bước trưởng thành và ngày càng lớn mạnh. Cho dù ở thời kỳ nào, tập thể lãnh đạo và công chức người lao động trong Hệ thống cũng luôn đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực cố gắng, tích cực chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ được cấp trên giao, góp phần quan trọng, đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tháng 7/1993, Toà án nhân dân tỉnh Sông Bé chính thức bàn giao công tác thi hành án sang cho Sở Tư Pháp với số lượng 22 người, trong đó có 12 Chấp hành viên. Phần lớn số cán bộ tại thời điểm bàn giao chưa bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định. Đến khi tái lập tỉnh vào năm 1997, các cơ quan THADS tỉnh có 28 người, trong đó có 12 Chấp hành viên, gồm: Phòng THADS thuộc Sở Tư pháp, 04 Đội Thi hành án các huyện, gồm: Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một trực thuộc Phòng Tư pháp. Đến tháng 7/1999, tỉnh được thành lập thêm 03 đơn vị hành chính cấp huyện là Dĩ An, Dầu Tiếng và Phú Giáo, theo đó thành lập thêm 03 cơ quan Thi hành án cấp huyện, nâng tổng số cơ quan Thi hành án cấp huyện lên 07, khi đó toàn tỉnh có 29 người, trong đó có 13 Chấp hành viên. Đến hết năm 2003, các cơ quan THADS trong toàn tỉnh có 58/58 biên chế được phân bổ (trong đó có: 26 Chấp hành viên với 3 Chấp hành viên cấp tỉnh, 23 Chấp viên cấp huyện và 24 công chức làm nghiệp vụ). Trong số 58 công chức thì có 50 người có trình độ đại học; 08 người có trình độ trung cấp; 04 người có trình độ cao cấp chính trị; 03 người có trình độ trung cấp chính trị... Hầu hết các Chấp hành viên đã qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, quản lý nhà nước.
Từ 2004 - 2008 là giai đoạn vừa nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, Chấp hành viên, vừa tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngạch công chức các cơ quan THADS. Đến năm 2008 (Luật THADS được ban hành), toàn tỉnh có 93 biên chế, trong đó có 43 Chấp hành viên (gồm 09 Chấp hành viên cấp tỉnh và 34 Chấp hành viên cấp huyện).
Đến tháng 12/2013 tỉnh thành lập thêm 02 đơn vị hành chính cấp huyện là Bàu Bàng và Bắc Tân Uyên, theo đó tháng 02/2014 thành lập thêm 02 cơ quan Thi hành án cấp huyện nâng tổng số lên 09 cơ quan Thi hành án cấp huyện. Từ 2009 đến nay cũng là giai đoạn có nhiều đổi mới quan trọng trong công tác tổ chức cán bộ, kể cả sự thay đổi cơ cấu các chức danh tư pháp thuộc Hệ thống các cơ quan THADS nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan THADS trong tình hình mới. Chấp hành viên được bổ nhiệm theo ba ngạch sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Ngoài ra, chức danh Thư ký THADS cũng được bổ sung để giúp Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ hiệu quả. Tính đến 30/6/2021, các cơ quan THADS trong tỉnh đã thực hiện được 143/157 biên chế. Trong đó có 71 Chấp hành viên (27 trung cấp, 44 sơ cấp), 07 Thẩm tra viên, 39 Thư ký và chuyên viên pháp lý, 03 chuyên viên, 16 kế toán và 07 cán sự.
Về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, kết quả thi hành án tăng cả về số việc và tiền, cụ thể:
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 1993 - 1997 (tỉnh Sông Bé) là 7.482 việc. Trong đó, số cũ chuyển sang từ Tòa án là 1.783 việc (hồ sơ), số thụ lý mới là 5.699 việc, đã giải quyết xong 5.526 /6.943 việc, đạt tỉ lệ 79,6%. Riêng năm 1993 đã giải quyết xong 602/1.855 việc, đạt tỉ lệ 32,45%, đến năm 1997 đã giải quyết xong 2.067/3.484 việc, đạt tỉ lệ 59,33% (tăng 26,88% so với năm 1993).
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 1997 - 2003 là 21.502 việc. Trong đó, số cũ chuyển sang từ Thi hành án Sông Bé là 1.857 việc, số thụ lý mới là 19.645 việc, đã giải quyết xong 18.055/20.763 việc, đạt tỉ lệ 86,95%. Riêng năm 2003 đã giải quyết xong 3.288/5.996 việc, đạt tỉ lệ 54,84% (giảm 4,5% so với năm 1997).
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 2004 - 2008 là 36.439 việc, trong đó số cũ chuyển sang là 3.447 việc, số mới thụ lý là 32.992 việc, đã giải quyết xong 32.334 /34.598 việc, đạt tỉ lệ 92,49%. Riêng năm 2004, năm đầu tiên triển khai thực hiện Pháp lệnh THADS 2004 đã giải quyết xong là 4.148/7.261 việc, đạt tỉ lệ 57,12%; Năm 2008 đã thi hành xong 9.772/11.470 việc, đạt tỉ lệ 85,2% (tăng 28,08% so với năm 2004, tăng 25,87% so với năm 1997).
- Tổng số việc thụ lý giai đoạn 2009 - 2012 là 52.001 việc, trong đó số cũ chuyển sang là 2.844 việc, số mới thụ lý là 49.157 việc, đã giải quyết xong là 43.575/45.437 việc, đạt tỉ lệ 95,9%. Kết quả thi hành về việc so với số có điều kiện giai đoạn này tăng mạnh, nhất là từ năm 2009 trở lại đây (sau thời điểm Luật THADS 2008 có hiệu lực). Cụ thể: năm 2009, đã thi hành xong 10.036/12.392 việc có điều kiện thi hành, đạt tỉ lệ 80,98%; Năm 2012, thi hành xong 12.063 việc/13.925 việc, đạt tỉ lệ 86,62% (tăng 5,64% so với năm 2009, tăng 29,5% so với năm 2004, tăng 27,29% so với năm 1997).
- Giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015. tập trung thực hiện các chỉ tiêu do Tổng cục THADS giao, cụ thể theo hàng năm: Năm 2013: Đã thi hành xong 16.487 việc, đạt tỷ lệ 81,53%; Năm 2014: Đã thi hành xong 19.342 việc, đạt tỷ lệ 85,37%; Năm 2015: Đã giải quyết xong 19.945 việc, đạt tỷ lệ 85,82%, 06 tháng đầu năm 2016: đã thi hành xong 8.503 việc, đạt tỷ lệ 48,26%.
- Giai đoạn từ năm 2016 đến nay, tập trung thực hiện các chỉ tiêu do Tổng cục THADS giao, cụ thể theo hàng năm: Năm 2016, Về việc: tổng số thụ lý là 29.255 việc, đã giải quyết xong 19.826 việc, đạt tỷ lệ 75,93% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 4,93%); Về tiền: tổng số tiền thụ lý là 5.235 tỷ 096 triệu 715 nghìn đồng, đã giải quyết xong 1.329 tỷ 192 triệu 244 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 30,95% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 0.95%). Năm 2017, Về việc: tổng số thụ lý là 30.100 việc, đã giải quyết xong 19.932 việc, đạt tỷ lệ 76,11% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 5.11%); Về tiền: tổng số tiền thụ lý là 5.381 tỷ 391 triệu 654 nghìn đồng, đã giải quyết xong 1.352 tỷ 334 triệu 849 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 31,35% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 1,35%). Năm 2018, Về việc: tổng số thụ lý là 29.014 việc, đã giải quyết xong 18.663 việc, đạt tỷ lệ 75,6% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 3,6%); Về tiền: tổng số tiền thụ lý là 6.932 tỷ 442 triệu 297 ngàn đồng, đã giải quyết xong 1.174 tỷ 904 triệu 966 ngàn đồng, đạt tỷ lệ 32,02% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 0,02%). Năm 2019, Về việc: tổng số thụ lý là 28.144 việc, đã thi hành xong 17.700 việc, đạt tỷ lệ 76,04% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 3.04%); Về tiền: tổng số tiền thụ lý là 7.908 tỷ 331 triệu 604 nghìn đồng, đã thi hành xong 1.900 tỷ 207 triệu 176 ngàn đồng, đạt tỷ lệ 36,47% (so với chỉ tiêu giao, vượt 3.47%). Năm 2019, Về việc: tổng số thụ lý là 24.972 việc, đã thi hành xong 16.751 việc, đạt tỷ lệ 80,56% (so với chỉ tiêu được giao, vượt 0,56%); Về tiền: tổng số tiền thụ lý là 7.135 tỷ 455 triệu 923 nghìn đồng, đã thi hành xong 1.999 tỷ 911 triệu 553 ngàn đồng, đạt tỷ lệ 49,94% (so với chỉ tiêu giao, vượt 11,94%).
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị
Tại thời điểm tháng 7/1993 khi nhận bàn giao công tác THADS từ Tòa án sang thì cơ sở vật chất hầu như không có gì vì Tòa án ở thời điểm đó cũng hết sức khó khăn, thiếu thốn. Ngay sau khi tiếp nhận bàn giao, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các huyện, thị đã quan tâm bố trí ngay trụ sở làm việc tạm thời để đảm bảo cho các cơ quan thi hành án đi vào hoạt động. Đến hết năm 2002, các cơ quan thi hành án đã đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho 02 Đội Thi hành án (Thuận An, Tân Uyên) với tổng vốn đầu tư là 780 triệu đồng. Từ năm 2002 - 2005, việc đầu tư trang thiết bị và phương tiện làm việc cho các cơ quan THADS địa phương được thực hiện theo Đề án “Đầu tư trang bị phương tiện làm việc,v.v.. giai đoạn 2002 - 2005”.
Từ năm 2006 - 2010, việc đầu tư trang thiết bị và phương tiện làm việc giai đoạn 2006 - 2010”. Như vậy, về cơ bản, các cơ quan THADS đã được trang bị các thiết bị, phương tiện làm việc thiết yếu để phục vụ công tác như: xe ô tô, xe chuyên dùng, xe máy và các thiết bị làm việc khác,..Tổng kinh phí đầu tư xây dựng trụ sở trong các năm từ 2003-2008 là 6.269 triệu đồng.
Từ năm 2009 đến nay cơ sở vật chất, trang thiết bị đã được đầu tư, đổi mới căn bản. Tính đến năm 2015, có 10/10 đơn vị được đầu tư xây dựng trụ sở và 03 đơn vị được xây dựng kho vật chứng. Hầu hết công chức được trang bị máy tính, Cục Thi hành án dân sự tỉnh và một số Chi cục THADS được trang bị đầy đủ phương tiện làm việc (xe ô tô, xe máy và các loại loại công cụ hỗ trợ cần thiết khác) để phục vụ công tác và cưỡng chế, vận chuyển tang vật, phù hợp với đặc thù hoạt động nhằm mục tiêu tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động THADS.
Kết quả thi đua, khen thưởng
Hàng năm, căn cứ vào Kế hoạch phát động thi đua của Tổng cục, Cục THADS tỉnh đã xây dựng kế hoạch phát động và hướng dẫn đăng ký thi đua. Trên cơ sở đó, từng đơn vị xây dựng kế hoạch phát động phong trào thi đua gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của từng đơn vị mình. Việc phát động các phong trào thi đua luôn được thực hiện thường xuyên, liên tục, rộng rãi; phát động thi đua theo đợt, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Hình thức thi đua liên tục được đổi mới, chất lượng công tác thi đua, khen thưởng được nâng lên, thu hút được đông đảo công chức, người lao động tham gia. Việc tổng kết được thực hiện kịp thời, qua đó động viên, khích lệ cán bộ công chức, người lao động hăng hái thi đua, phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chung.
Qua kết quả thi đua, đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Với những nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của cán bộ công chức, người lao động, trong những năm qua Đảng, Nhà nước và Ngành cấp trên đã tặng nhiều phần thưởng cao quý cho các tập thể, cá nhân. Cụ thể là:
- Về hình thức khen thưởng: Từ năm 2003 đến 2014, có 02 tập thể và 02 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba; 05 cá nhân được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 12 lượt tập thể và 102 lượt cá nhân được tặng Bằng khen của Bộ Tư pháp; 01 tập thể và 01 cá nhân có thành tích xuất sắc trong 20 năm (1993 - 2003) được nhận bằng khen của Bộ Tư pháp, Cục THADS được tặng Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ.
- Về danh hiệu thi đua: Từ năm 2003 đến 2014, có 06 tập thể được tặng Cờ thi đua Ngành Tư pháp; 07 cá nhân được công nhận Chiến sĩ thi đua ngành, 39 lượt tập thể đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc; 26 cá nhân được nhận kỷ niệm chương vì sự nghiệp Tư pháp và nhiều danh hiệu, hình thức khen thưởng khác. Ngoài ra, còn nhiều cá nhân được khen thưởng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở, tập thể lao động xuất sắc, nhiều tấm gương trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,...
- Về danh hiệu thi đua, khen thưởng từ năm 2015 đến nay:
+ Năm 2015: 14 tập thể và 172 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 16 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 04 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 01 tập thể được tặng “Cờ thi đua Ngành Tư pháp”; 01 tập thể và 01 cá nhân được Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen; 52 cá nhân và 04 tập thể được tặng giấy khen.
+ Năm 2016: 13 tập thể và 151 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 11 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 03 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 01 tập thể được tặng “Cờ thi đua Ngành Tư pháp”; 01 tập thể được Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen; 01 cá nhân được tặng danh hiệu “chiến sĩ thi đua Ngành Tư pháp”; 10 tập thể và 78 cá nhân được tặng giấy khen.
+ Năm 2017:11 tập thể và 127 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 10 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 01 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 01 cá nhân được tặng danh hiệu “chiến sĩ thi đua Ngành Tư pháp”; 09 tập thể và 77 cá nhân được tặng giấy khen.
+ Năm 2018: 12 tập thể và 161 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 15 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 05 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 02 tập thể được tặng “Cờ thi đua Ngành Tư pháp”; 05 tập thể và 52 cá nhân được tặng giấy khen.
+ Năm 2019: 13 tập thể và 150 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 15 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 05 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 02 tập thể được tặng “Cờ thi đua Ngành Tư pháp”; 04 tập thể và 43 cá nhân được tặng Giấy khen; 03 tập thể và 04 cá nhân được Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen.
+ Năm 2020: 13 tập thể và 152 cá nhân được công nhận danh hiệu “Lao động tiên tiến”; 15 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”; 02 cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến ỹ thi đua Ngành Tư pháp”; 05 tập thể được công nhận “Tập thể lao động xuất sắc”; 03 tập thể được tặng “Cờ thi đua Ngành Tư pháp”; 72 cá nhân được tặng Giấy khen của Cục trưởng; 01 tập thể và 04 cá nhân được tặng Bằng khen của Bộ trưởng; 01 tập thể được tặng Cờ thi đua Chính phủ.
Với những kết quả đã đặt được nêu trên, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương đã được công nhận “điển hình tiên tiến ngành Tư pháp giai đoạn 2015 – 2020”, theo Quyết định số 2111/QĐ-BTP ngày 14/10/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Phát huy truyền thống và những thành tựu đã đạt được, trong thời gian tới các cơ quan THADS tỉnh Bình Dương quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương giao, cụ thể:
1. Tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 – 2025); hoàn thành các yêu cầu, nhiệm vụ về THADS năm 2021 và giai đoạn 2021 - 2025, đặc biệt là chỉ tiêu thi hành án xong về việc, về tiền được Tổng cục giao; tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các đơn, thư khiếu nại, những vụ việc có giá trị thi hành lớn, án tín dụng ngân hàng, án trên 3 năm, án trọng điểm, án kinh tế tham nhũng,... phấn đấu giảm án chuyển kỳ sau.
2. Tiếp tục chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS và các luật liên quan như: Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính và các văn bản luật khác có liên quan nhằm phát huy hiệu quả, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tạo chuyển biến căn bản trong công tác THADS; chủ động, tích cực tham gia góp ý các văn bản pháp luật liên quan đến công tác THADS, hành chính khi có yêu cầu.
3. Kiện toàn tổ chức bộ máy đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, nhất là những đơn vị phát sinh lượng án lớn, đơn vị mới được thành lập; triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc các Đề án của Tổng cục THADS về công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung và công tác cán bộ (nói riêng) giai đoạn 2021 - 2026.
4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác kiểm tra,v.v..; khắc phục những thiếu sót về chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động xử lý kịp thời, đúng pháp luật các đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế để phát sinh khiếu nại vượt cấp, kéo dài,v.v.
5. Tăng cường công tác phối hợp trong THADS; tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả của các Quy chế phối hợp đã được ký kết, nhằm nâng cao kết quả THADS.
6. Chú trọng, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp, báo cáo, thống kê, công tác thi đua, khen thưởng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS; tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ khác theo chỉ đạo của cấp trên cũng như cấp ủy, chính quyền địa phương.
Tự hào về những thành quả đã đạt được của chặng đường 75 năm, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đáp ứng tốt nhất yêu cầu thực tiễn trong công tác THADS, tin tưởng rằng, từng đơn vị và mỗi cá nhân công chức, người lao động trong các cơ quan THADS tỉnh Bình Dương sẽ phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu không ngừng, để cùng với các cơ quan, đơn vị và lực lượng thực thi pháp luật của Nhà nước thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đấu tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm và vi phạm pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Nguyễn Quang Hòa
Chánh Văn phòng Cục THADS tỉnh Bình Dương