Kể từ sau ngày độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định riêng về công tác thi hành án dân sự với các nội dung về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án và thẩm quyền tổ chức thi hành án. Sắc lệnh này có 05 Điều, trong đó quy định: Các bản toàn sao hoặc trích sao án, hoặc mệnh lệnh do các phòng Lục sự phát cho người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các Toà án Hộ, đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: "Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà truyền cho các thừa phát lại theo lời yêu cầu của người đương sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý và Biện lý kiểm soát việc thi hành, các vị chỉ huy Binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu". Các bản toàn sao hoặc trích sao án có thể thức thi hành chỉ có thể phát cho người đương sự một lần thôi, trừ những trường hợp đặc biệt do ông Chánh án cho phép. Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Toà án. Ban ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án. Ở những nơi nào đã có thừa phát lại riêng, thì người đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh lệnh.
Mặc dù số lượng các điều khoản trong Sắc lệnh này không nhiều nhưng là văn bản đầu tiên chứa đựng đầy đủ các yêu cầu cơ bản của tổ chức bộ máy của một ngành như tổ chức bộ máy, nhân sự; phạm vi hoạt động; thẩm quyền tổ chức thi hành án; nội dung bản án, quyết định được thi hành và trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án. Do vậy, có thể nói đây là nền móng, những viên gạch hồng đầu tiên cho sự trưởng thành và phát triển về thể chế thi hành án dân sự cũng như tổ chức bộ máy của hệ thống thi hành án dân sự ngày nay.
2. Sự hình thành và phát triển của đội ngũ chấp hành viên - lực lượng nòng cốt quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự
Trước năm 1972, người được giao nhiệm vụ chủ yếu tổ chức thi hành án dân sự có các tên gọi khác nhau như Thừa phát lại, Thẩm phán thi hành án, nhân viên chấp hành án. Sau khi có Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định: “Tại các tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được xác định rõ trong Luật tổ chức tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên. Tên gọi “Chấp hành viên” ra đời từ đó và tồn tại cho đến ngày nay.
Vào thời điểm này, Nhà nước không tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặt chấp hành viên tại các Tòa án nhân dân địa phương để thực hiện chuyên trách việc thi hành án dân sự. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường, hoàn trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa án nhân dân đôn đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp dưới. Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân nơi mình công tác, không có quyền trực tiếp chỉ đạo công tác của chấp hành viên Tòa án nhân dân cấp dưới mà chỉ có trách nhiệm giúp Chánh án nắm tình hình, theo dõi kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của các chấp hành viên tại cácTòa án nhân dân cấp dưới, của Ban tư pháp xã, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thi hành án tại địa phương.
Chánh án Tòa án nhân dân địa phương có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo chấp hành viên của tòa án mình, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn công tác thi hành án của Tòa án nhân dân cấp dưới; chỉ đạo công tác thống kê, sơ kết, tổng kết công tác thi hành án, giải quyết khiếu nại về thi hành án và xây dựng, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ chấp hành viên.
Đến năm 2008, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác tổ chức cán bộ và tổ chức thi hành án, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì lần đầu tiên chấp hành viên được cơ cấu gồm ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp thay vì Chấp hành viên được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ là Chấp hành viên cấp tỉnh, Chấp hành viên cấp huyện như trước đây. Mặc dù tên gọi có thể khác nhau qua các thời kỳ và tính chất công việc của chấp hành viên là phức tạp, khó khăn đôi lúc gặp phải sự chống đối quyết liệt từ phía đương sự nhưng chấp hành viên có niềm tự hào nghề nghiệp riêng, đó là người nhân danh Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ của mình để bảo đảm công lý được thực thi trên thực tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.
3. Năm 1993, năm bàn giao công tác quản lý thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân sang Bộ Tư pháp
Từ tháng 6/1993 trở về trước, công tác thi hành án dân sự do Toà án nhân dân các cấp đảm nhiệm, Toà án vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa trực tiếp tổ chức thi hành án (trừ Toà án nhân dân tối cao). Tại kỳ họp thứ nhất ngày 6/10/1992, Quốc hội Khóa IX đã ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự và liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993. Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác thi hành án dân sự từ đó đến nay. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay đã chứng kiến sự phát triển không ngừng của hệ thống Thi hành án dân sự cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ chấp hành viên, công chức cơ quan Thi hành án dân sự.
Năm 2013, qua kết quả tổng kết 20 năm công tác thi hành án dân sự (1993-2013) cho thấy việc bàn giao công tác thi hành án dân sự cho Bộ Tư pháp quản lý là phù hợp, kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền ngày càng nâng cao, nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
4. Năm 2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự - đánh dấu bước phát triển mới về thể chế thi hành án dân sự
Kế thừa các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự trước đây như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 (có 43 Điều), Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 (50 Điều) và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 (70 Điều), năm 2008 được coi là năm đánh dấu bước tiến lớn trong việc hoàn thiện thể chế thi hành án dân sự. Có thể nói, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, riêng trong lĩnh vực thi hành án dân sự thì Luật Thi hành án dân sự năm 2008 với 183 Điều là văn bản chuyên ngành đầu tiên về Thi hành án dân sự có hiệu lực pháp lý cao nhất. Đây là một bước thể chế hóa chủ trương: "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp” đã được quy định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW thành hiện thực. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, có tính pháp điển cao, trong đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, việc có một văn bản có hiệu lực pháp lý cao do Quốc hội ban hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự như Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Những nội dung mới của Luật Thi hành án dân sự đã cụ thể hóa các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự và thể chế hoá các chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp nên đã kịp thời điều chỉnh có hiệu quả những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.
5. Năm 2009, Tổng cục Thi hành án dân sự và các Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện được thành lập theo hệ thống ngành dọc trên phạm vi cả nước
Thực hiện Nghị định số 74/2009/NĐ-CP, ngày 06/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 2999/QĐ-BTP công bố việc thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 3 và Điều 4 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP. Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan Thi hành án dân sự trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự. Chi cục Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan Thi hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, các chức danh lãnh đạo trong hệ thống Thi hành án dân sự cũng được chuyển đổi cho phù hợp với quy định mới. Ở Trung ương, chức vụ Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự được đổi thành Tổng cục trưởng, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự; ở cấp tỉnh, cấp huyện thì Trưởng, Phó trưởng Thi hành án dân sự được chuyển đổi thành Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự hoặc Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự tương ứng theo quy định.
6. Năm 2010, Luật Tố tụng hành chính ra đời đã chính thức giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý công tác thi hành án hành chính
Khác với những quy định mang tính chung chung của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây, nay Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm thi hành án hành chính và cơ quan quản lý nhà nước về thi hành hành chính. Về trách nhiệm thi hành án hành chính, Luật Tố tụng hành chính đã quy định rất chi tiết về trách nhiệm của người phải thi hành án tại Điều 244 và Điều 245. Trên cơ sở những quy định này thì người phải thi hành án là cơ quan, công chức nhà nước sẽ phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà hành chính và gần như đã khắc phục được những hạn chế thi hành án hành chính như trước đây. Đối với công tác quản lý nhà nước về thi hành án hành chính thì Luật Tố tụng hành chính đã khắc phục hạn chế trước đây bằng cách giao cho Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án hành chính và có sáu nhóm nhiệm vụ, quyền hạn chính bao gồm: i) Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án hành chính; ii) Bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; iii) Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý thi hành án hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án hành chính; iv) Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý thi hành án hành chính; v) Báo cáo Chính phủ về công tác thi hành án hành chính và vi) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thống kê, theo dõi, tổng kết công tác thi hành án hành chính. Ngoài ra, Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính, thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính và theo quy định của Chính phủ.
Triển khai thực hiện các nhiệm vụ thi hành án hành chính nêu trên, ngày 06/01/2012, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tham mưu trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật tố tụng hành chính đối với công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính kèm theo Quyết định số 38/QĐ-BTP; đồng thời, chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác này. Tiếp theo, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tham mưu giúp Lãnh đạo Bộ Tư pháp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ký, ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 25/5/2012 về việc triển khai công tác thi hành án hành chính, chỉ đạo các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện nhiệm vụ này; tham mưu, giúp Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai công tác thi hành án hành chính kèm theo Quyết định số 2251/QĐ-BTP ngày 01/8/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đặc biệt, thực hiện nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai công tác thi hành án hành chính kèm theo Quyết định số 2251/QĐ-BTP ngày 01/8/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, trong tháng 4/2013, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao tổ chức kiểm tra liên ngành về việc triển khai công tác thi hành án hành chính theo Chỉ thị 17/CT-TTg tại Hà Nội, Nghệ An, Cà Mau, Bình Định. Tổng cục Thi hành án dân sự cũng đã kết hợp tổ chức Hội nghị tọa đàm trao đổi về trình tự, thủ tục đôn đốc thi hành án hành chính tại Cà Mau.
Ngoài ra, để bổ sung và quy định chi tiết hơn một số nhiệm vụ, quyền hạn mới của Bộ Tư pháp về công tác thi hành án hành chính đã được quy định tại Luật Tố tụng hành chính, Bộ Tư pháp cũng đã kịp thời trình Chính phủ ký ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/03/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thay thế cho Nghị định số 93/2008/NĐ-CP trước đây. Theo đó, khoản 13 Điều 2 của Nghị định này đã giao Bộ Tư pháp có nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính theo quy định tại Điều 246 Luật Tố tụng hành chính.
7. Năm 2011, lần đầu tiên Bộ Tư pháp tổ chức thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp cho các cơ quan Thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước
Khác với các quy định trước đây về tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên, theo quy định tại Điều 18 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì một trong các tiêu chuẩn bắt buộc để được bổ nhiệm làm chấp hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ thi tuyển chấp hành viên ở các ngạch tương ứng. Quy định mới về thi tuyển chấp hành viên này nhằm khắc phục hạn chế trong quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ nhiệm chấp hành viên theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Việc bổ nhiệm chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Hơn nữa, việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển cũng là phù hợp với định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”. Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, năm 2011, Bộ Tư pháp đã tổ chức thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp cho các cơ quan Thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước. Các Chấp hành viên sơ cấp trúng tuyển kỳ thi này đều đã phải trải qua một kỳ thi nghiêm khắc với yêu cầu cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên giúp cho chấp hành viên có thêm bản lĩnh và tự tin hơn trong quá trình công tác.
Tuy nhiên, việc thi tuyển chấp hành viên trong thời gian trước mắt cũng có trường hợp ngoại lệ. Theo quy định tại mục 3 Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 4 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự thì: “Để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay, giao Chính phủ quy định những cơ quan Thi hành án dân sự cụ thể ở các địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ cử nhân Luật làm chấp hành viên không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành”.
8. Người chưa phải là công chức nếu có đủ điều kiện vẫn được tham gia kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp - một trong những cơ chế để thu hút người vào làm việc trong các cơ quan Thi hành án dân sự
Để thực hiện chủ trương thu hút để bổ sung nguồn cán bộ cho cơ quan Thi hành án dân sự, khoản 4 Điều 17 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự lần đầu tiên đã quy định: “Bộ Tư pháp quy định điều kiện, việc sơ tuyển, hồ sơ thi tuyển đối với người không phải là cán bộ, công chức tham gia thi tuyển chấp hành viên và trường hợp công chức từ các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh này tham gia thi tuyển vào ngạch chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh khác”.
Trên cơ sở quy định này, Điều 9 Thông tư số 10/2012/TT-BTP ngày 15/10/2012 quy định tổ chức thi tuyển vào ngạch Chấp hành viên sơ cấp đã quy định về điều kiện và hồ sơ đăng ký dự thi vào ngạch Chấp hành viên sơ cấp đối với những người chưa phải là công chức, bao gồm: Có đủ các điều kiện để trở thành công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; có đủ điều kiện và hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư này; đơn vị nơi đăng ký dự thi còn chỉ tiêu biên chế và có nhu cầu bổ sung Chấp hành viên sơ cấp; có đủ điều kiện được miễn chế độ tập sự quy định tại khoản 4 Điều 20 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP và có tài liệu, giấy tờ để xác định thời gian làm công tác pháp luật.
9. Sự ra đời của chế định Thừa phát lại làm công tác thi hành án dân sự và mô hình này tiếp tục được nhân rộng trong thời gian tới
Cùng với việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, trên cơ sở những định hướng của Đảng tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là: “Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình … từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện các Nghị quyết trên của Đảng, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã kịp thời ban hành Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/02/2006, trong đó đã xác định rõ nhiệm vụ của công tác xã hội hoá trong lĩnh vực thi hành án dân sự đó là "Nghiên cứu mô hình tổ chức Thừa phát lại, trước mắt tổ chức thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh". Do đó, cùng với thời điểm thông qua Luật Thi hành án dân sự, Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008 cũng đã thông qua Nghị quyết nhất trí giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2009) đến ngày 01/7/2012. Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24-7-2009 của Chính phủ Về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Để triển khai thực hiện Nghị định này, 3 Thông tư liên tịch đã được ban hành hướng dẫn chi tiết cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như quy trình thủ tục thi hành án dân sự của Văn phòng Thừa phát lại. Tính đến thời điểm tháng 7 năm 2012, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm 53 Thừa hành viên; Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập, cấp phép hoạt động cho 08 Văn phòng Thừa phát lại với 33 Thừa phát lại, 68 Thư ký Thừa phát lại và 33 nhân viên khác làm việc tại các Văn phòng. Mặc dù thời gian thí điểm chưa dài nhưng qua tổng kết cho thấy hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại đã thu được kết quả khả quan, được xã hội, người dân đón nhận tích cực. Kết quả hoạt độngcủa các Văn phòng Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh đến thời điểm tổng kết thực hiện Nghị quyết số 24 của Quốc hội (30/6/2012) như sau: i) Về tống đạt giấy tờ: Đã thực hiện tống đạt 103.218 văn bản với tổng chi phí thu được bước đầu là 6.568.605.000 đồng. ii) Về lập vi bằng: Tổng số vi bằng đã lập và đăng ký tại Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh là 5.020 vi bằng, tổng doanh thu là 9.556.248.000 đồng. iii) Về xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự: Các Văn phòng Thừa phát lại đã thực hiện được 147 vụ việc xác minh điều kiện thi hành án với tổng số phí thu được là 682.550.000 đồng; trực tiếp tổ chức thi hành xong 26 vụ việc với giá trị thi hành là 7.318.317.993 đồng với chi phí thu được là 359.966.280 đồng.
Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã chủ động xây dựng Đề án và đề nghị Chính phủ cho phép triển khai chế định này tại địa phương mình. Để giúp Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định hướng đi tiếp theo, Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tổng kết thực hiện thí điểm chế định này và có Báo cáo riêng trình Quốc hội. Qua tổng kết cho thấy, việc thực hiện thí điểm chế định này tại thành phố Hồ Chí Minh đạt kết quả tốt, được người dân đón nhận tích cực; đã bổ trợ có hiệu quả cho một số hoạt động hành chính, tư pháp, trong đó có hoạt động thi hành án dân sự.
Từ những kết quả tích cực đã đạt được nêu trên, theo yêu cầu của địa phương, Bộ Tư pháp đã tham mưu để Chính phủ trình Quốc hội mở rộng thí điểm Thừa phát lại thêm ở một số tỉnh, thành khác. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc giao Chính phủ tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại đến hết ngày 31/12/2015 và tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2015. Trên cơ sở đó, Tổng cục Thi hành án dân sự đã khẩn trương tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013 phê duyệt “Đề án tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”, trên cơ sở Đề án, Bộ Tư pháp đã thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tài chính dự kiến lựa chọn 13 địa phương mở rộng thực hiện thí điểm; tiến hành xây dựng Kế hoạch triển khai Đề án; xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2009/NĐ-CP; chuẩn bị tổ chức tập huấn để bổ nhiệm Thừa phát lại cho các địa phương mở rộng thực hiện thí điểm...
10. Năm 2013 là năm đầu tiên kỷ niệm 67 năm Ngày truyền thống Thi hành án dân sự và 20 năm chuyển giao công tác thi hành án dân sự sang Bộ Tư pháp và cũng là năm đầu tiên kỷ niệm Ngày pháp luật Việt Nam
Có thể nói năm 2013 là năm có nhiều sự kiện nổi bật đối với ngành Tư pháp nói chung và đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng. Chỉ một thời gian ngắn, sau ngày độc lập, ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủCộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án. Để ghi nhận thành tích vẻ vang của lĩnh vực thi hành án dân sự và động viên các thế hệ cán bộ, công chức và người làm công tác thi hành án dân sự tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, ngày 05/3/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 397/QÐ-TTg lấy ngày 19/7 hàng năm là "Ngày truyền thống Thi hành án dân sự", đánh dấu chặng đường lịch sử 67 năm hình thành và phát triển của công tác thi hành án dân sự. Đây là dịp quan trọng để các thế hệ cán bộ, công chức và người làm công tác thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước tổ chức ôn lại truyền thống vẻ vang và động viên khích lệ cán bộ, công chức nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, tiếp thu, kế thừa và phát huy truyền thống, đề ra những phương hướng, giải pháp mới, sáng tạo, hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi năm về trước, từ ngày 01/7/1993, các Toà án địa phương chính thức bàn giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ mà trực tiếp là giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Có thể nói, tại thời điểm bàn giao thì lực lượng tổ chức thi hành án dân sự rất yếu và thiếu; trụ sở, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc của cơ quan Thi hành án dân sự vừa thiếu vừa lạc hậu nên công tác tổ chức thi hành án gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể, tại thời điểm bàn giao biên chế cơ quan Thi hành án dân sự có 1.126 người, trong đó có 700 chấp hành viên. Phần lớn số cán bộ ở thời điểm bàn giao chưa bảo đảm đủ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định, đặc biệt có nơi không có cán bộ thi hành án để bàn giao, cán bộ có trình độ pháp lý bổ sung cho cơ quan Thi hành án ở thời điểm đó không nhiều, nhất là các tỉnh miền núi, miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ (có chỉ tiêu biên chế nhưng không tuyển được người). Số lượng án được bàn giao sang các cơ quan Thi hành án để tiếp tục tổ chức thi hành vào thời điểm 01/7/1993 là 121.325 hồ sơ thi hành án, với tổng số tiền phải thi hành gần 120 tỷ đồng; 851.300 USD; hàng trăm lượng vàng; hàng nghìn tấn thóc và nhiều tài sản khác. Ngay sau khi tiếp nhận bàn giao, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện để tạm thời bố trí nơi làm việc, phương tiện điều kiện làm việc cho các cơ quan thi hành án, phần lớn các Phòng, Đội Thi hành án chưa có nơi làm việc riêng, kho tang vật vẫn phải gửi nhờ kho của Toà án. Sau hai mươi năm nhận bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân, đến nay hình ảnh của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự đã được đổi thay cơ bản, thực hiện tốt nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao cho.
Để đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, từ năm 2013, ngày 09/11 đã được Quốc hội quyết định lựa chọn là Ngày Pháp luật Việt Nam. Việc ra đời của ngày này nhằm tôn vinh vai trò to lớn và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội, qua đó bảo vệ các quyền, tự do của mỗi người. Ngày Pháp luật là dịp để mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và mỗi người dân nói chung, công chức của hệ thống thi hành án dân sự nói riêng tự nhìn nhận lại mình, nghiêm khắc với mình hơn, tự kiểm điểm trách nhiệm, từ đó giáo dục ý thức tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, phòng ngừa, đấu tranh và chống các hành vi vi phạm pháp luật.
Nhìn lại 67 năm chặng đường hình thành và phát triển, bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản thì công tác thi hành án dân sự vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Với sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của Lãnh đạo Bộ Tư pháp cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức hệ thống thi hành án dân sự, hy vọng rằng những nội dung về cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự sẽ tiếp tục nghiên cứu và triển khai thực hiện có hiệu quả phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Văn Nghĩa