Sign In

MỘT SỐ VI PHẠM TRONG VIỆC THU PHÍ THI HÀNH ÁN

05/02/2020

      * Trường hợp 1:  Đương sự tự nguyện thi hành án, nhưng vẫn tiến hành thu phí thi hành án, vi phạm khoản 8, Điều 6 Thông tư 216/2016/TT-BTC.
      1. Thực hiện bản án số 02/2018/HS-ST ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân thị xã A, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A (Chi cục) đã ban hành Quyết định thi hành án số 11/QĐ-CCTHADS ngày 03/7/2019 cho thi hành đối với Nay Thêm, Nay Trưng, Nay Khư, Nay Mông; cùng cư trú tại: Buôn Ma H’ R, xã Ia H, huyện P, tỉnh G về khoản liên đối bồi thường số tiền 67.625.415 đồng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T. Tại thời điểm Bản án tuyên, người phải thi hành án đã tự nguyện nộp được số tiền 33.845.589 đồng, Chi cục đã tiến hành lập biên lai tạm thu theo qui định.
     Sau khi ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 11/QĐ-CCTHADS, ngày 10/7/2019, Chi cục đã rút, chuyển toàn bộ số tiền đã tạm thu sang thu chính thức và đến ngày 11/7/2019 tiến hành thủ tục chi trả cho người được THA. Cùng ngày Chi cục ra quyết định thu phí số 12/QĐ-CCTHADS và thực hiện thu phí số tiền 1.015.368 đồng (33.845.589 đồng x 3%) đối với người được thi hành án là Công ty TNHH MTV T.
      Từ nội dung giải quyết trên của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A cho thấy: Số tiền 33.845.589 đồng những người phải thi hành án nộp sau khi có Bản án, nhưng tại thời điểm nộp, Chi cục chưa ban hành quyết định THA. Đây là trường hợp những người phải thi hành án tự nguyện THA để khắc phục hậu quả, do đó không thuộc trường hợp người được THA khi nhận tiền THA phải nộp phí THA. Bởi theo qui định tại khoản 8, điều 6, Thông tư 216/TT-BTC ngày 10/11/2016:
      “Người được thi hành án không phải chịu phí THA dân sự khi được nhận các khoản tiền, tài sản trong các trường hợp sau đây:
      ….8. Tiền, tài sản mà đương sự tự nguyện thi hành trong thời hạn tự nguyện THA theo Điều 45 của Luật Thi hành án dân sự”
      2. Thực hiện Bản án đã có hiệu lực pháp luật, ngày 24/11/2017 người phải thi hành án là ông Ama H và bà Rmah H có đơn tự nguyện thi hành án để trả nợ cho ông Nguyễn Thái H 35.000.000 đồng. Căn cứ nội dung Bản án và xét đơn của người phải thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A đã ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 17/QĐ-CCTHADS ngày 24/11/2017 cho thi hành khoản thi hành án nêu trên đối với ông Ama H và bà Rmah H.
      Ngày 27/11/2019, Chi cục lập thủ tục chi trả cho người được thi hành án là ông Nguyễn Thái H số tiền 35.000.000 đồng, đồng thời ra quyết định thu phí THA số 02/QĐ-CCTHADS ngày 27/11/2017 và thu phí số tiền 1.050.000đồng (35.000.000 x 3%) đối với ông H. Xét thấy, người phải thi hành án là ông Ama H và bà Rmah H làm đơn tự nguyện thi hành án và đã thi hành trong thời gian tự nguyện thi hành án để trả nợ, do đó người được thi hành án không thuộc trường hợp phải nộp phí THA. Vì vậy, việc ra quyết định và tổ chức thu phí THA của Chi cục THADS thị xã A đối với ông Nguyễn Thái H là không phù hợp theo qui định tại khoản 8, Điều 6, Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ tài chính qui định mức thu, chế độ nộp, quản lý và sử dụng phí phi hành án.
      * Trường hợp 2: Người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án không vượt quá hai lần mức lương cơ sở nhưng vẫn tiến hành thu phí, việc thu phí chưa đảm bảo phù hợp do áp dụng sai qui định theo khoản 1, Điều 5, Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016, cụ thể:
      Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2018/QĐST-DS ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện I đã tuyên: “….Chị Nguyễn Sử Thanh H phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị Lụa 2.000.000 đồng/tháng vào ngày 15 hàng tháng, bắt đầu 15/02/2018 đến khi thanh toán xong nợ gốc là 60.000.000 đồng…”.
      Căn cứ Quyết định nêu trên của Tòa án bà Nguyễn Thị L đã 03 lần làm đơn  yêu cầu thi hành án đối với với bà H phải trả mỗi lần là 2.000.000 đồng  và Chi cục Thi hành án dân sự huyện I (Chi cục) đã ban hành 03 Quyết định THA cụ thể:
      Quyết định THA số 88/QĐ-CCTHADS ngày 07/3/2018 cho thi hành đối với bà Nguyễn Sử Thanh H – Thôn Đoàn Kết, xã Ia Mrơn, huyện I phải thi hành khoản tiền trả nợ tháng 02/2018 số tiền 2.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị L – Thôn H’Lil 2, Ia Mrơn, huyện I; Quyết định THA số 126/QĐ-CCTHADS ngày 24/4/2018 cho thi hành đối với bà Nguyễn Sử Thanh H phải thi hành khoản tiền trả nợ lần 2 số tiền 2.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị L và Quyết định THA số 145/QĐ-CCTHADS ngày 18/5/2018 cho thi hành đối với bà Nguyễn Sử Thanh H phải thi hành khoản tiền trả nợ tháng 6/2018 số tiền 2.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị L
      Căn cứ số tiền trả nợ mỗi lần 2.000.000 đồng, Chi cục huyện I đã áp dụng khoản 1 và khoản 3, Điều 5 Thông Tư số 216/2016/TT-BTC để ra Quyết định thi phí số 07/QĐ-CCTHADS ngày 23/3/2018 và thu phí thi hành án của bà L số tiền 2.000.000 đồng x 3% = 60.000 đồng; Quyết định thu phí số 12/QĐ-CCTHADS ngày 21/5/2018 và thu phí thi hành án của bà Lụa số tiền 2.000.000 đồng x 3% = 60.000 đồng và Quyết định thu phí số 24/QĐ-CCTHADS ngày 20/8/2018 và thu phí thi hành án của bà Lụa số tiền 2.000.000 đồng x 3% = 60.000 đồng.
     Tuy nhiên, việc áp dụng khoản 1 và khoản 3, Điều 5 Thông tư số 216/2016/TT-BTC của Chi cục Thi hành án dân sự huyện I để ban hành các Quyết định thu phí và tổ chức thu phí đối với người được THA là bà Nguyễn Thi L là chưa đảm bảo phù hợp theo qui định. Bởi lẽ, đây là trường hợp không phải chịu phí thi hành án dân sự theo khoản 4, Điều 6 thông tư 216/2016/TT-BTC cụ thể: “ Người được THA không phải chịu phí THADS khi nhận các khoản tiền, tài sản thuộc các trường hợp sau đây:……4. tiền hoặc giá trị tài sản theo yêu cầu THA không vượt quá hai lần lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do nhà nước qui định.” 
      Hồ sơ giải quyết THA thể hiện, người được thi hành án đã làm đơn yêu cầu THA theo từng đợt, mỗi đợt là 2.000.000 đồng là không quá hai lần mức lương cơ sở theo qui định tại Nghị Định 47/NĐ-CP ngày 24/4/2017 của Chính phủ qui định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vụ trang từ 01/7/2017 là 1.300.000đ và qui định tại Nghị định 72/2018/NĐ-CT ngày15/5/2018 của Chính phủ thì mức lương cơ sở từ 01/7/2018 là 1.390.000đ. Vì vậy, việc tổ chức thu phí THA của Chi cục huyện I đối với bà nguyễn Thị L là chưa đúng qui định.
      * Trường hợp 3: Không tổ chức thu phí đối với người được thi hành án khi nhận tiền bồi thường thiệt hại về tài sản, vi phạm khoản 1 Điều 6 Thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016.
      Căn cứ Bản án hình sự số 16/HSST ngày 02/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện K quyết định công nhận thỏa thuận bị Cáo Ksor N bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại là anh Đặng Văn H số tiền 14.000.000 đồng (Ksor N phạm tội trộm cắp tài sản) và Quyết định ủy thác THA số 02/QĐ-CCTHADS ngày 17/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự K, Chi cục THADS huyện I (Chi cục) ban hành Quyết định THA theo yêu cầu số số 29/CCTHADS ngày 24/10/2017 cho thi hành án đối với Ksor N, trú tại: Bôn Jứ, xã Ia Broái, huyện I về khoản bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Đặng Văn H, trú tại: 191 Trần Hưng đạo, phương Đoàn Kết, thị xã A, số tiền 14.000.000 đồng.
      Quá trình tổ chức thi hành án, ngày 14/3/2018 người phải thi hành án đã nộp 14.000.000 đồng để thi hành khoản bồi thường thiệt hại tài sản cho ông Đặng Văn H. Ngày 16/3/2018 Chi cục THADS huyện I lập thủ tục chi trả toàn bộ số tiền 14.000.000 đồng cho người được THA. Tuy nhiên, Chi cục đã không ra quyết định thu phí và không tổ chức việc thu phí đối với ông Đặng Văn H là do áp dụng trái với qui định tại khoản 1, Điều 6 thông tư 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016, cụ thể: “Người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án dân sự khi nhận các khoản tiền, tài sản thuộc các trường hợp sau đây: 1. Tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; tiền lương, tiền công lao động; tiền trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc; tiền bảo hiểm xã hội; tiền bồi thời thiệt hại vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động…”.
      Đối chiếu qui định trên, số tiền 14.000.000 đồng người được THA được nhận là khoản tiền bồi thường thiệt hại tài sản, không thuộc các khoản tiền mà Thông tư 216/2016/TT-BTC qui định không phải phí thi hành án.
      * Trường hợp 4: Việc tổ thực hiện mức thu phí THA không đúng theo qui định, ảnh hưởng quyền lợi của người được thi hành án, vi phạm khoản 2, Điều 46 nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015:
      Quyết định thi hành án số 1815/QĐ-CCTHA ngày 13/7/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Tp P (Chi cục) buộc thi hành án đối với bà Nguyễn Thị Lan P – Địa chỉ: 22D Phan Đình Phùng, Tp P phải trả khoản trả nợ 300.000.000 đồng cho bà Đặng Thị Kim H – Địa chỉ: 320 Phan Đình Phùng, Tp P. Theo hồ sơ thể hiện: Ngày 27/7/2016, Chấp hành viên lập biên bản giải quyết THA đối với đương sự, nội dung: “…Bà Phương chuyển nhượng cho bà Hương 01 lô đất ở tổ 2, phường Hoa Lư, Tp P theo giấy CNQSDĐ số BĐ 269830 với giá trị tương đương 150.000.000 đồng và bà P tự trả thêm cho bà H tiền mặt 50.000.000 đồng…”. Cùng ngày, Chi cục đã ban hành Quyết định thu phí THA số 144/QĐ-CCTHA để thu phí 200.000.000 đồng x 3% = 6.000.0000 đồng và Chấp hành viên hành viên đã lập biên lai thu phí số tiền trên.
      Tại khoản 2, Điều 46 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ qui định: “Trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án và chứng kiến các đượng sự thỏa thuận tự giao nhận tiền, tài sản cho nhau thì phải chịu 1/3 mức phí thi hành án qui định tại khoản 1, Điều này”. Trong trường hợp này giữa bà H và bà P tự thỏa thuận cấn trừ tài sản để thi hành nghĩa vụ trả nợ, Chấp hành viên chỉ lập biên bản chứng kiến sự thỏa thuận giao nhận tiền cho nhau giữa các đương sự, người được THA không nhận tiền trực tiếp từ Chi cục Tp P. Nên trường hợp này người được thi hành án chỉ phải chịu 1/3 mức phí THA theo qui định nêu trên, cụ thể chỉ được thu 1/3 của mức phí 3% trên số tiền 200.000.000 đồng ((3% x 200.000.000 đồng) x 1/3 = 2.000.0000 đồng. Vì vậy, Chi cục Tp P đã vi phạm khoản 2, Điều 46 Nghị định 62/2015/NĐ-CP trong việc áp dụng mức thu  phí đối với người được THA.


Theo Nguyễn Hữu Đức - Phó trưởng phòng KTGQKNTC

Các tin đã đưa ngày: