1. Bối cảnh
Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác thi hành án dân sự (THADS) nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơ quan (THADS), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, chính sách pháp luật để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hoàn thiện thể chế, chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 03/10/2017 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017; Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế,...
Từ năm 2017 đến nay, hàng năm Chính phủ đều ban hành Nghị quyết về thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
[1], trong đó, lĩnh vực THADS được xác định là một thành tố quan trọng cần phải được cải thiện trong chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng (chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng - A9 là 01 trong 10 chỉ số đo lường mức độ cạnh tranh của các nền kinh tế toàn cầu trong Báo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới).
Để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, ngày 27/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Nghị quyết giao cho các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều giải pháp như: hoàn thiện thể chế, chính sách chung về đầu tư nước ngoài; hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư; hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm bảo hộ và đề cao trách nhiệm, hợp tác của nhà đầu tư…Nhận thấy THADS là hoạt động nhằm đưa bản án, quyết định ra thi hành trên thực tế, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Nằm trong yêu cầu chung đó, công tác THADS đối với các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại (KDTM) có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định này; qua đó góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và thực thi giải quyết tranh chấp về KDTM. Do đó, để hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý, giám sát đầu tư, tăng cường hiệu quả công tác THADS nói chung, THADS đối với các bản án kinh doanh thương mại góp phần thực thi công lý, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, Nghị quyết 58/NQ-CP đã giao Bộ Tư pháp xây dựng
“Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại”. Tổng cục THADS đã tham mưu Lãnh đạo Bộ xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 17/QĐ-TTg ngày 13/01/2023 phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết định KDTM giai đoạn 2023-2028.
2. Mục tiêu Đề án
2.1. Đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được tổ chức thi hành trên thực tế, phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Tăng cường áp dụng các biện pháp đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong công tác THADS nói chung, công tác thi hành án KDTM nói riêng; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cản trở, chống đối, chây ỳ, không chấp hành bản án theo quy định của pháp luật.
2.2. Hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật theo hướng chú trọng chất lượng, đơn giản hóa trình tự, thủ tục, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, giảm thiểu các chi phí do ngân sách nhà nước đảm bảo hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nộp trong quá trình tổ chức thi hành án.
2.3. Công khai, minh bạch quy trình tổ chức thi hành án, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác THADS.
2.4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được xác định trong bản án, quyết định về KDTM.
2.5. Phấn đấu nâng tỷ lệ thi hành án xong đối với các bản án, quyết định KDTM trên tổng số án có điều kiện thi hành năm sau cao hơn năm trước góp phần đảm bảo hoàn thành và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ Quốc hội giao theo Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án.
3. Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu Đề án
Đề án đưa ra 03 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, cụ thể:
- Nhóm 01: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, pháp luật khác có liên quan:
Đây là nhóm nhiệm vụ, giải pháp quan trọng nhất nhằm nâng cao hoạt động THADS nói chung, công tác thi hành án đối với các bản án, quyết định KDTM nói riêng, bao gồm:
+ Rà soát, đánh giá tổng thể quy định của Luật THADS, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, đề xuất giải pháp hoàn thiện, trong đó đặt trọng tâm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành bản án, quyết định KDTM, đơn giản hóa trình tự, thủ tục, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, thể chế hóa những nội dung mang tính đặc thù của thi hành án KDTM;
+ Rà soát, đánh giá, đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Đấu giá tài sản năm 2016, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành theo hướng quy định cụ thể những đặc thù trong quá trình bán đấu giá tài sản THADS, thi hành án KDTM; công khai, minh bạch hóa việc bán đấu giá tài sản thi hành án; đơn giản hóa thủ tục xác lập quyền sở hữu cho người mua được tài sản bán đấu giá; có cơ chế giám sát, kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản bảo đảm khách quan, có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá...;
+ Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phá sản nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác THADS nói chung, thi hành các bản án, quyết định KDTM nói riêng;
+ Nghiên cứu, đề xuất, trình Chính phủ Nghị định
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS; Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản thi hành án là cổ phần, cổ phiếu, vốn góp (xác minh giá trị phần vốn góp, kê biên, thẩm định, bán đấu giá phần vốn góp, cổ phần, cổ phiếu...);
+ Nghiên cứu, làm rõ vai trò, trách nhiệm của luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.
+ Trên cơ sở rà soát, đánh giá tổng thể quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, đề xuất giải pháp hoàn thiện, trong đó làm rõ hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Trọng tài thương mại về thời hiệu thi hành phán quyết trọng tài; về thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài; giải thích đối với phán quyết trọng tài,...
- Nhóm 02: Nâng cao hiệu lực của hệ thống cơ quan THADS, đề cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thi hành án KDTM; kiên quyết tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc thi hành án KDTM có điều kiện thi hành; có giải pháp phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý nghiêm, dứt điểm ca)
+ Hướng dẫn, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc thi hành án KDTM có điều kiện thi hành, đặc biệt là các vụ việc trọng điểm, giá trị lớn, phức tạp; các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng; các tài sản đã áp dụng biện pháp bảo đảm, kê biên, phong toả, bao gồm:
+ Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp giữa cơ quan THADS và các cơ quan có chức năng trong công tác thi hành án, trong đó: Cơ quan tài nguyên và môi trường kịp thời cung cấp thông tin xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án liên quan đến đất đai; cơ quan công an tăng cường phối hợp hiệu quả, chặt chẽ với cơ quan THADS trong công tác bảo vệ cưỡng chế thi hành án, nhất là những vụ việc thi hành án có tính chất phức tạp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, kiên quyết xử lý hình sự đối với những trường hợp cản trở, chống đối việc thi hành án, cố ý không chấp hành án theo quy định pháp luật. Nghiên cứu đề xuất biện pháp xử lý và chế tài áp dụng trong trường hợp các cơ quan có chức năng không phối hợp hoặc thiếu trách nhiệm trong việc phối hợp trong công tác thi hành án.
+ Đề cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS các cấp trong thi hành án KDTM, nhất là chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý tài sản, đất đai và các cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về tài khoản, tài sản, đất đai theo yêu cầu của cơ quan THADS, kịp thời áp dụng các biện pháp bảo đảm, kê biên, phong toả, xử lý tài sản trong quá trình thi hành án KDTM.
+ Tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành Trung ương để kịp thời phát hiện, khắc phục và hạn chế các vi phạm, tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và đề nghị xử lý hình sự đối với những người vi phạm từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án KDTM.
+ Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong thi hành án KDTM, kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp cản trở, chống đối, chây ỳ, không chấp hành bản án theo quy định của Bộ luật hình sự.
+ Tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản trong thi hành án KDTM. Kiểm soát chặt chẽ việc bán đấu giá tài sản trong THADS, trong đó, tăng cường kiểm tra việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, thông báo công khai việc đấu giá tài sản của cơ quan THADS thông qua Cổng thông tin điện tử quốc gia về bán đấu giá tài sản; đẩy mạnh tổ chức triển khai việc đấu giá trực tuyến tài sản thi hành án.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Hệ thống THADS có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THADS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
- Nhóm 03: Công khai, minh bạch quy trình THADS, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tham gia giám sát của tổ chức, cá nhân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức, người dân trong việc tuân thủ pháp luật về chấp hành các bản án, quyết định KDTM, bao gồm:
+ Hoàn thiện cơ sở dữ liệu THADS, trong đó chú trọng dữ liệu về công tác thi hành án KDTM, cụ thể: hoàn thiện phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu điện tử THADS và KDTM; tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị công nghệ thông tin, nguồn nhân lực công nghệ thông tin và chuyên môn xây dựng, vận hành quản lý cơ sở dữ liệu về THADS, thi hành án KDTM.
+ Nghiên cứu cơ chế phối hợp, trao đổi, tích hợp, đồng bộ hóa giữa cơ sở dữ liệu THADS nói chung với cơ sở dữ liệu, thông tin về tài sản, thu nhập, tài khoản… của doanh nghiệp, người phải thi hành án đang được lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về công chứng, bảo hiểm xã hội, đăng ký đất đai, đăng ký giao dịch bảo đảm, đăng ký doanh nghiệp,...) để việc tra cứu, khai thác thông tin được dễ dàng, nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên trong việc xác minh, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế khi tổ chức thi hành các bản án, quyết định KDTM.
+ Minh bạch, công khai các bước thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án như: kết quả xác minh điều điện thi hành án, kết quả lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản, kết quả lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản; thực hiện nghiêm việc đăng tải công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành; nghiên cứu cơ chế công khai danh sách các vụ việc chưa có điều kiện thi hành án đã chuyển sổ theo dõi riêng.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho các cơ quan ban ngành trong hệ thống chính trị xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác THADS; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nhận thức rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ pháp luật, chấp hành các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền; tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến về thi hành các bản án, quyết định KDTM dành cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đội ngũ luật sư... nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung, công tác thi hành án KDTM nói riêng.
4. Dự báo tác động của Đề án
Với mục tiêu đã được xác định, khi được triển khai thực hiện, Đề án dự kiến sẽ có những tác động tích cực sau:
4.1. Góp phần tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về THADS nói chung, thi hành án KDTM nói riêng, qua đó từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về quản lý, giám sát đầu tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả của thiết chế thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp trong KDTM.
4.2. Tăng tỷ lệ giải quyết các vụ việc, bản án KDTM, nhất là các vụ việc phức tạp, tranh chấp có giá trị lớn, góp phần nâng cao kết quả công tác THADS, bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật; đồng thời, nâng cao tính cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của nước ta, nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang ngày càng sâu rộng.
4.3. Nâng cao chất lượng, ý thức trách nhiệm của đội ngũ Chấp hành viên, công chức làm công tác THADS, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong việc thi hành các bản án KDTM.
4.4. Thông qua việc thực hiện Đề án sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác phối hợp với cơ quan THADS; từng bước nâng cao nhận thức về công tác THADS, ý thức tuân thủ pháp luật, chấp hành các bản án KDTM của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
4.5. Các giải pháp về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS sẽ là công cụ phục vụ đắc lực, hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước về THADS, sẵn sàng kết nối với các bộ, ngành, địa phương để góp phần phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử./.