Một số mâu thuẫn, chồng chéo giữa Bộ Luật dân sự 2005 và pháp luật về Thi hành án dân sự.

Bộ Luật dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Đây là một Bộ luật quan trọng, liên quan đến mọi mặt đời sống của người dân, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành, nhiều cấp. Bộ Luật dân sự năm 2005 ra đời đã phát huy được vai trò to lớn, đáp ứng được yêu cầu tình hình mới của đất nước, cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp năm 1992, nhằm điều chỉnh chung các quan hệ xã hội theo nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận, công bằng và bình đẳng, tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể theo khuôn khổ quy định của pháp luật  hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự quyết định của các chủ thể. Đây có thể được coi là Bộ luật gốc, là cơ sở cho việc xây dựng các Luật chuyên ngành. Việc mâu thuẫn, chồng chéo giữa quy định của Bộ Luật dân sự 2005 và các luật chuyên ngành (nếu có) sẽ gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan nhà nước trong quá trình áp dụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong phạm vi bài viết, tôi xin trình bày một vài ý kiến cá nhân về một số mâu thuẫn, chồng chéo giữa quy định của Bộ Luật dân sự 2005 để làm cơ sở tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của Bộ Luật dân sự 2005 và Luật Thi hành án dân sự 2008.

Những khó khăn trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.

Thực tiễn khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trong quá trình tác nghiệp, chấp hành viên đã gặp nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn và bất cập khiến chấp hành viên có sự “e ngại” khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mà không có yêu cầu từ phía đương sự hay không có được sự hỗ trợ từ các cơ quan, ban ngành có liên quan.

Bàn về địa điểm niêm yết công khai việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Bán đấu giá tài sản là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động thi hành án dân sự vì đây là một trong những cách thức khá quan trọng để “xử lý tài sản thi hành án”.

Vấn đề kê biên tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án trong thi hành án dân sự.

Như chúng ta đã biết, trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án ở các cơ quan Thi hành án dân sự thì đối với việc thi hành án về nghĩa vụ trả tiền, phần lớn người phải thi hành án cố tình kéo dài việc thi hành án và bản thân họ cũng không có thu nhập nào đáng kể để đảm bảo cho việc thi hành. Do đó, trong trường hợp này, cơ quan Thi hành án phải xác minh tìm tài sản của người phải thi hành án để kê biên bán tài sản lấy tiền thi hành án.

Hướng giải quyết đối với một vụ việc khiếu nại bức xúc, phức tạp, tồn đọng kéo dài

Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành các Bản án số 378/DSPT ngày 15/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh N; Quyết định số 176/2010/DSST ngày 23/6/2010; Quyết định số 212/2010/DSST ngày 13/8/2010; Quyết định số 03/2010/DSST ngày 2010/2010 của Tòa án nhân dân huyện T đối với ông M, bà Nguyễn Thị L phải thi hành cho các ông, bà: T; A; C; H và bà P tổng số tiền phải thi hành 6.353.888.000đồng (trong đó bà L và bà H liên đới trả cho ông T 3.521.760.000đ) và 165.897.000đồng án phí.

Áp dụng thời hiệu giải quyết khiếu nại đối với quyết định “Trả lại đơn yêu cầu thi hành án” của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự.

Qua mục “nghiên cứu trao đổi” trên Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thi hành án dân sự, tác giả Phạm Công Ý có bài “Một số quy định về thời hiệu khiếu nại trong thi hành án dân sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng” tác giả còn đưa ra ví dụ cụ thể như sau: “Luật sư là người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án, khiếu nại quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện. Xác định thời hiệu khởi kiện còn hay đã hết cho thấy: ngày 06/10/2012 Luật sư nhận được Quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án số 37/QĐ-CCTHA ngày 24/9/2012 của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện. Đến ngày 23/10/2012 Cục Thi hành án dân sự tỉnh nhận đơn khiếu nại của Luật sư là 17 ngày, kể từ ngày Luật sư nhận được Quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án”.

Sửa đổi Nghị định 61 về Thừa phát lại: Thêm quyền cho Thừa phát lại?

Xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 61/CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng cục Thi hành án dân sự đề nghị cho phép Thừa phát lại xác minh điều kiện thi hành án trước khi có bản án, tuy nhiên theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính thì chỉ nên quy định Thừa phát lại có quyền xác minh tài sản phục vụ việc ra quyết định khẩn cấp tạm thời cho việc kê biên tài sản theo yêu cầu của Tòa án. Đây là một nội dung quan trọng tại cuộc họp lần thứ nhất Ban soạn thảo Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 61/Cp vừa được Bộ Tư pháp tổ chức mới đây.

Hướng dẫn về xử lý tài sản thi hành án bán đấu giá không có người tham gia đấu giá, trả giá.

Một số Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo xin chỉ đạo, hướng dẫn đối với trường hợp tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án đã được đưa ra bán đấu giá công khai nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá. Về vấn đề nay, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự chủ trì tổ chức cuộc họp liên ngành với nhiều cơ quan liên quan. Trên cơ sở cuộc họp liên ngành và văn bản góp ý của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, ngày  27/02/2013 Bộ Tư pháp có Công số 1569 /BTP-TCTHADS hướng dẫn về xử lý tài sản thi hành án bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá với những nội dung cơ bản như sau:

Đại diện theo ủy quyền và thẩm quyền, thủ tục ủy quyền trong thi hành án dân sự

Theo quy định tại khoản 3, Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005 thì ủy quyền là một trong hai dạng xác lập quan hệ đại diện (dạng còn lại là đại diện theo pháp luật). Từ khái niệm “đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (khoản 1, Điều 139 Bộ Luật dân sự), có thể hiểu rằng ủy quyền là việc một người giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho mình.