Trao đổi về thỏa thuận trong thi hành án dân sự

Thỏa thuận là quyền dân sự của công dân trong giao lưu dân sự được pháp luật công nhận và bảo vệ. Khi giao kết dân sự, các bên thỏa thuận với nhau về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Họ thể hiện ý chí của mình trong giao lưu dân sự tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.

Vai trò của Tòa án trong thi hành án dân sự

Theo quy định tại Điều 26, Điều 27, Điều 28 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: "Khi ra bản án, quyết định, Tòa án phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án"; "Cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành”"; "Chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án cho cơ quan Thi hành án dân sự kịp thời, đúng thời hạn qui định của pháp luật. Kèm theo bản án, quyết định là các giấy tờ, tài liệu liên quan (nếu có)".

Một "kiểu" cản trở việc thi hành án?

Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy, có rất nhiều "kiểu" để cản trở việc thi hành án mà pháp luật chưa dự liệu hết. Việc bố mẹ tự nguyện làm đơn giao tài sản là nhà, đất để thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình, con khởi kiện đòi quyền tài sản, cũng là một "kiểu" cản trở, mà ngay cả cơ quan ban hành ra bản án cũng không lường trước được?

Xử lý tài sản của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành án dân sự, nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ về tiền đối với cá nhân, tổ chức (gọi chung là người phải thi hành án). Mặc dù trình tự, thủ tục thực hiện việc kê biên, các điều kiện đối với tài sản kê biên…, đã được pháp luật quy định tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, đối tượng bị áp dụng biện pháp cưỡng chế có thể bao gồm cá nhân, pháp nhân mà từng đối tượng lại có quy định về chế độ sở hữu, sử dụng tài sản khác nhau. Từ đó làm nảy sinh không ít những vấn đề khiến các chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự còn lúng túng. Để đảm bảo hiệu lực và tính khả thi của bản án, quyết định cũng như thống nhất trong cách hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác thi hành án dân sự, giảm thiểu những sai sót, vi phạm. Tôi xin nêu ra một ví dụ thực tiễn và phân tích để các đồng chí, đồng nghiệp cùng có ý kiến tham gia, trao đổi.

Cần sửa đổi, bổ sung Điều 127 Luật Thi hành án dân sự quy định về xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Thi hành án dân sự

Vừa qua, của  Ban soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp có Công văn số 83/BTP-BST ngày 08/01/2014 và Tổng cục Thi hành án dân sự có Công văn số 124/TCTHADS-NV1 ngày 13/01/2014 về việc lấy ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Qua xem xét dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, chúng tôi thống nhất cao với dự thảo của Ban soạn thảo thuộc Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có một số ý kiến góp ý để sửa đổi, bổ sung đối với các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng mà dự thảo văn bản chưa đề cập đến, cụ thể như sau:

Thi hành án trong trường hợp đương sự là người phải thi hành án đồng thời là người được thi hành án

Thực tiễn áp dụng Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cho thấy chủ yếu các trường hợp thi hành án thì đương sự là người được thi hành án hoặc người phải thi hành án hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhưng cũng có trường hợp đương sự là người phải thi hành án đồng thời cũng là người được thi hành án. Sau đây xin dẫn ra ví dụ:

Cần sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Thi hành án dân sự.

Hiện nay, trong thực tiễn đang có rất nhiều trường hợp hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau khi ban hành “Quyết định trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ” và “Quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự”. Do quy định tại Khoản 3 Điều 68 về việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự và quy định tại khoản 1 Điều 126 về việc trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự của Luật Thi hành án dân sự hiện hành chưa rõ ràng, chưa điều chỉnh hết được các trường hợp diễn ra trong thực tiễn, lại chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên dẫn tới việc áp dụng pháp luật không thống nhất, áp dụng pháp luật theo kiểu tương tự, thừa thủ tục hành chính. 

Ủy thác tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án dân sự và vấn đề còn bỏ ngỏ

Uỷ thác tư pháp về dân sự là yêu cầu bằng văn bản của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy thác tư pháp chính là một hình thức để thực hiện tương trợ tư pháp được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

Bản án không xác định cụ thể người phải thi hành án và những người thừa kế có quyền liên đới quản lý di sản thừa kế, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có ra được quyết định thi hành án không?

Có rất nhiều bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra được quyết định thi hành án nhưng việc thi hành án khó thi hành, kéo dài nhiều năm không có kết quả. Điển hình có bản án không xác định cụ thể người phải thi hành án và những người thừa kế có quyền liên đới quản lý di sản thừa kế dẫn đến vụ việc kéo nhiều năm, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự vẫn chưa ra được quyết định thi hành án. Trường hợp dưới đây là một ví dụ cụ thể:

Trao đổi nghiệp vụ về tổ chức thi hành án một vụ việc chia tài sản sau ly hôn

Trao đổi nghiệp vụ về thi hành án dân sự trong những trường hợp quá trình tổ chức thi hành án gặp khó khăn, vướng mắc được đánh giá là rất quan trọng. Qua trao đổi có thể tập hợp được nhiều ý kiến, kinh nghiệm hay về cách thức giải quyết vụ việc góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ trong đội ngũ chấp hành viên đang trực tiếp tổ chức thi hành án.